佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Đại Ai Kinh, 8 quyển; Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

VT0398

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Phẩm 1: BỒ-TÁT TRANG NGHIÊM PHÁP HỘI

Phẩm 2: TÁN THÁN PHÁP HỘI

QUYỂN 2

Phẩm 3: PHÁP MÔN VÔ CÁI

Phẩm 4: TRANG NGHIÊM PHÁP BẢN

Phẩm 5: TÁM HÀO QUANG

QUYỂN 3

Phẩm 3: ĐẠI BI

Phẩm 7: GIÁO HÓA

Phẩm 8: ĐẠO TUỆ

Phẩm 9: KIẾP SỐ

Phẩm 10: HẠNH NGHIỆP

QUYỂN 4 Phẩm 11: BIẾT BA ĐỜI

Phẩm 12: TRÍ HIỂU CHÚNG SINH

Phẩm 13: CHỦNG LOẠI CHÚNG SINH

Phẩm 14: CĂN BẢN

Phẩm 15: THẦN TÚC

Phẩm 16: NHẤT TÂM ĐỊNH Ý

QUYỂN 5

Phẩm 17: BIẾT BẢN HẠNH CỦA CHÚNG SINH

Phẩm 18: THẤU TỎ

Phẩm 19: CHẤM DỨT LẬU HOẶC

Phẩm 20: BỐN VÔ ÚY

Phẩm 21: MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG (1)

QUYỂN 6

Phẩm 21: MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG (2)

Phẩm 22: ĐẠO NHƯ LAI

QUYỂN 7

Phẩm 23: TÁM TỔNG TRÌ

QUYỂN 8

Phẩm 24: QUÁ KHỨ

Phẩm 25: TUỆ NGHIỆP

Phẩm 26: BỒ-TÁT TRÍ TÍCH

Phẩm 27: TÁN THÁN

Phẩm 28: PHÓ CHÚC

 

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Phẩm 1: BỒ-TÁT TRANG NGHIÊM PHÁP HỘI

Nghe như vầy:

Một thuở nọ Đức Phật ở núi Linh thứu thuộc thành Vương xá là chốn chư Phật thời xa xưa thường qua lại, cư trú đựơc hình thành bằng uy thần của Như Lai, có đạo tràng được các Bồ-tát ca ngợi, pháp tòa rất oai nghi, các chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà đều nương về, lễ bái, tuyên dương công đức của Phật và oai quang của Như Lai, ưa thích chánh pháp và sự sáng suốt thần diệu của Bồ-tát, hội nhập vô lượng, vô biên công đức, hạnh nguyện của Như Lai, thành tựu đạo Chánh đẳng Chánh giác, chuyển xe pháp vi diệu, hóa độ tất cả, hiểu rõ tâm tánh, chí hướng của chúng sinh, tùy thuận căn cơ để độ thoát, trừ mọi sự trở ngại. Ở nơi nào Như Lai đều làm việc Phật, không vướng thế tục, kiên định chánh hạnh, không ai sánh bằng. Bên cạnh Phật còn có sáu trăm vạn Tỳ-kheo đều là những vị đã diệt trừ dục trần, không bị chướng ngại, là trưởng tử của Như Lai, thực hành pháp sâu xa, thọ sinh không bằng nghiệp, điên đảo, tâm luôn nhu hòa, oai nghi đầy đủ đạo hạnh đối với nẻo hành hóa của Như Lai, Thế Tôn luôn đạt được mọi gần gũi.

Vô số Bồ-tát cũng có mặt ở đây đều hành trì không chướng ngại, đủ trí lớn, thần thông nhanh nhẹn, tu tập Từ bi, lưu truyền pháp Phật, tuôn mưa cam lồ, trừ mọi khổ nạn cho chúng sinh, tâm bình đẳng với tất cả như đất, trừ hết mọi vọng tưởng, chấp trước, ràng buộc, hoằng dương đạo pháp, tu trọn ba mươi bảy phẩm Trợ đạo. Như mặt trời, trí tuệ của Bồ-tát soi thấu tất cả, xua tan màn u tối cho thế gian, làm khô cạn sông ái, chí nguyện sâu xa, tạo nghiệp chân chánh, đầy đủ thần thông, tự tại đi lại. Như mặt trăng soi sáng đêm tối, Bồ-tát bình đẳng cứu độ tất cả, làm cho chúng sinh an vui. Bồ-tát đủ phương tiện khéo léo tạo lợi ích cho tất cả, đưa chúng sinh đạt giải thoát nhưng tâm Bồ-tát không thêm bớt. Bồ-tát kiên định ý chí trong mọi hành nghiệp, luôn tu phạm hạnh, cúng dường Tam bảo, không lay chuyển trước các cảnh giới, không bị thế gian hủy báng, thị hiện gần gũi vô lượng Phật, đủ trí soi sáng rộng lớn như biển. Các vị là bậc pháp khí, tu hạnh Bồ-tát, được chúng sinh tôn kính, như sư tử chúa tể muôn thú, hành bốn Đế, đủ tâm Từ bi, quán sát tịch tĩnh, không kinh sợ khi nghe pháp sâu xa, đánh bại ngoại đạo, trải vô số kiếp hành hóa không biếng trễ, trọn vẹn công đức. Đó là các Bồ-tát Phổ Quán Kiến Vô Tận, Giai Đổ Chư Quốc Trang Nghiêm Biến Hiện, Như Lai Chủng Tánh Thành Tựu Vô Thoái, Oai Nghi Hóa Chúng Thị Vô Sân Nhuế, Vô Lượng Biện Tài Tràng Anh Biến Âm, Tích Lũy Thanh Tịnh Kim Quang Oai Thần Vương, Phân Biệt Quang Minh Biện Giải Tán Cú, Sinh Vô Lượng Phước Tích Lũy Thân Nghiệp đại thể có vô số Bồ-tát như thế.

Lúc đó, Đức Phật nêu giảng sự thọ sinh của Bồ-tát. Mười sáu năm kể từ khi thành đạo, Phật thấy tất cả đều thanh tịnh, đều dốc hưng khởi phát huy đạo pháp. Các Bồ-tát ở mọi nơi đều đến vì biết Phật sắp giảng tạng pháp của Như Lai. Các bậc Đại sĩ cũng vân tập đến pháp hội. Đức Phật nghĩ: Ta nên gia hộ cho các Bồ-tát để các vị phát huy đạo hạnh lãnh hội pháp môn rộng lớn nơi kinh điển. Với thần biến của mình, Phật muốn giúp đại chúng Bồ-tát hội nhập cảnh giới của Phật.

Nghĩ thế, Phật liền nhập Tam-muội biến hiện cảnh giới của Như Lai. Phật bay lên hư không, ngồi trên pháp tòa cao lớn bằng tam thiên đại thiên cõi Phật. Tòa ấy cao thấu đến cõi Sắc, cõi Vô sắc. Với công đức, Phật phóng hào quang soi đến chúng Bồ-tát thanh tịnh, chiếu rọi tất cả cõi Phật làm vui lòng đại chúng. Cung điện của các hàng Trời, Rồng, Thần cũng đều được soi sáng, ánh sáng đó mời gọi các Bồ-tát khắp mười phương tập hợp về, tất cả đều khen ngợi, đều ngồi trong gác đẹp, gác ấy, vách bằng vàng ròng, hiên bằng báu cát tường, cửa sổ bằng mã não, lan can bằng báu minh nguyệt, cửa đi ngọc là ly cấu, gác bằng báu phổ minh, xung quanh là tất cả các vật báu, treo các chuỗi ngọc, dựng cờ phướn, lọng báu, đốt đuốc lớn, xông hương chiên-đàn và hương quý được lấy từ biển, các rồng rải hoa bên trên. Xung quanh gác là những hàng cây báu và các lò hương thơm dịu. Ánh sáng tỏa khắp mười phương, thanh tịnh thượng diệu làm vui muôn loài. Tất cả các Bồ-tát đều ngồi trên tòa cao. Số tòa Sư tử nhiều đến nỗi không thể tính đếm, với mọi rộng lớn sự đẹp đẽ. Bốn bộ giới tự nhiên sinh ra bốn vạn cung điện cao lớn, lan can cao bốn trượng chín, rộng hai mươi dặm. Lọng báu được làm bằng ngọc dạ quang, ngọc ly cấu, ngọc phạm anh, đan xen với vàng tía, luôn phát ra tiếng hay. Tất cả mọi thứ ở đây đều tự nhiên biến hiện không ai làm nên. Như bốn cõi, tam thiên đại thiên thế giới đều thế.

Sau đó, Đức Thế Tôn an nhiên xuất định, tam thiên đại thiên cõi nước đều chấn động sáu cách. Ánh sáng của Phật soi chiếu mọi nơi nên tất cả đều thấy Phật, Bồ-tát, đại chúng chư Thiên ca ngợi công đức, rải hoa thơm, che lọng báu, đốt hương, trổi nhạc cúng dường. Cõi nước của chư Phật nơi mười phương đều chấn động. Hào quang của Phật soi thấu các cõi Phật. Thần thông của Phật biến hóa khôn lường, cảnh giới không hạn lượng, oai thần không bờ bến, hào quang vô biên, sức cảm hóa không thể lường biết.

Lúc này, núi Linh thứu tự nhiên biến mất. Đại chúng, Trời, Rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già vây quanh Phật để nghe pháp. Tứ Thiên vương và chư Thiên thấy Phật sắp giảng kinh nên rải hoa cúng dường Phật, nói kệ khen ngợi:

Ánh mặt trời mặt trăng

Và ánh sáng châu ngọc

Hào quang Phật che mờ

Trừ diệt ba đường ác

Soi thấu các cõi Phật

Vượt Tu-di, Thiết vi

Tất cả đều nương Phật

Đều vui mừng sung sướng.

Nói kệ xong Tứ Thiên vương đều vô cùng hoan hỷ. Đế Thích và chư Thiên trời Đao-lợi thấy Phật đến pháp tòa trong cung điện lớn, nên rải hoa cúng dường, nói kệ:

Thần thông Phật khôn lường

Biến hóa không ai sánh

Hiện ở khắp cõi Phật

Mặt trời trí đã mọc.

Hàng phục các quân ma

Thanh tịnh và oai nghiêm

Thần thông Phật tự tại

Xin kính lạy Thế Tôn.

Nói kệ xong chư Thiên đều hầu Phật. Thiên vương Tu-diệm thấy Phật đến pháp tòa ở cung điện lớn nên rải hoa cúng dường, nói kệ:

Trụ tuệ khôn lường

Biết rõ tánh chúng sinh

Không chấp tựa hư không

Đạt mọi việc ba đời.

Nhất tâm nhập các hạnh

Hiểu thấu tánh quần sinh

Vì thế con cung kính

Ba đời đều tôn ngưỡng.

Nói kệ xong Thiên vương theo hầu Phật. Chư Thiên nơi cõi trời Đâu-suất thấy Phật đến pháp tòa ở cung điện lớn nên rải hoa cúng dường, nói kệ:

Tuyên dương các kinh điển

Biết như huyễn, dợn nắng

Tất cả không văn tự

Nào đâu có ý, tâm.

Vì thương xót chúng sinh

Nên Phật khen ngợi pháp

Biết các pháp như nhiên

Không hề có ta người.

Nói kệ xong, chư Thiên đều cũng hầu Phật. Thiên vương Vô Kiều Lạc và chư Thiên thấy Phật đến pháp tòa ở cung điện lớn nên rải hoa cúng dường, nói kệ:

Thị hiện từ Pháp thân

mười phương như hư không

Thế Tôn hiện sắc thân

Thương xót nên chỉ dạy.

Phật dạy pháp không sắc

Hạnh bình đẳng thù thắng

Xin lạy Đấng Trí Sáng

Biết tất cả tánh hạnh.

Lễ Phật xong, chư Thiên đều theo hầu Phật. Thiên Vương trời Hóa tự tại và chư Thiên thấy Phật đến pháp tòa ở cung điện lớn nên rải hoa cúng dường, nói kệ:

Giữ giới lìa cấu uế

An trụ trong thanh tịnh

Quyền biến giáo hóa cả

Tâm định không thể động.

Trí tuệ không ai sánh

Như biển không sân hận

Độ thoát cho tất cả

Kính lạy Đấng Tự Tại.

Đủ thần thông biến hóa

An nhiên chuyển xe pháp

Thực hành hạnh Từ bi

Tất cả đều từ đó.

Giải thoát ba đường ác

Kính lạy đức hạnh Phật

Với lòng Từ bi đó

Bình đẳng với tất cả.

Định tịch tĩnh là hoa

Giải thoát là quả Phật

Cũng như chúa loài ong

Khuyên hóa các quyến thuộc.

An trụ như hoa sen

Xin cúi đầu kính lạy

Khéo an lâp giới cấm

Trụ nơi địa vững chải.

Đủ uy lực siêng năng

Siêu vượt không ai sánh

Kính lạy Đấng Tự Tại

Tối tôn không lay động.

Thương yêu tạo thanh tịnh

Đến đạo tràng soi sáng

Trí tuệ không cấu uế

Hào quang xua màng tối.

Vô số mọi quần sinh

Đều quay về nương tựa

Là đấng Chánh giác tôn

Cúi đầu lạy Đại Thánh.

Pháp giải thoát của Phật

Thấu suốt tựa hư không

Trí tuệ Phật cao xa

Hào quang chiếu mười phương.

Trăm ngàn hoa chúng sinh

Tất cả đều nở rộ

Tỏ ngộ từ u tối

Kính lạy Đấng không chấp.

Quán sát không gì sánh

Làm sao ai vượt qua

Tìm kiếm khắp mười phương

Đạo sư không ai bằng.

Công sức thật khôn lường

Đầy đủ mọi phước đức

Nay con xin ca ngợi

Chí nguyện vẫn chưa thỏa.

A-tu-la, các rồng

Đế Thích đều quy y

Vô số trời và người

Đều ca tụng Đức Phật.

Danh xưng Phật vô lượng

Không thể nghĩ bàn được

Kính lạy Đức Thế Tôn

Lưu truyền mọi công đức.

Nói kệ xong, chư Thiên đều theo hầu Phật.

Sau khi biến hóa ra vô lượng cảnh giới Phật tạo sự cám ứng nơi tất cả hàng trời, người, Phật đến pháp tòa, lên tòa cao, tất cả trời người ở bốn bộ đều thấy. Như bốn cõi, tam thiên đại thiên thế giới cũng vậy. Bấy giờ, Phật ngồi trên tòa Sư tử cao, các Bồ-tát, đại đệ tử đều tuần tự an tọa. Phật nhập Tam-muội Vô cái pháp môn ngu lạc, với sức của định nên từ nơi mỗi lỗ chân lông của Phật đều phóng ra hào quang soi chiếu đến các cõi nước Phật ở mười phương Đông, Tây, Nam, Bắc và bốn góc cùng phương trên dưới. Lúc đó, mọi khổ não của chúng sinh nơi địa ngục đều chấm dứt, các súc sinh được giải thoát, ngạ quỷ được an ổn, chúng sinh không bệnh khổ, không mê hoặc trong tham dục, giận dữ, si mê không còn khổ nạn, chúng sinh thương yêu kính trọng nhau như người thân trong nhà. Hào quang của Phật chiếu đến các Bồ-tát, Bồ-tát nương nơi oai lực Phật, nói kệ:

Sức tinh tấn vô lượng

Rộng lớn không nơi dừng

Diệu lực tinh tấn ấy

Siêu vượt trăm ngàn kiếp.

Mười Lực được lưu truyền

Thông thấu khắp mười phương

Hào quang Đức Thích-ca

Chiếu soi mọi cõi nước.

Vì mong cầu chánh pháp

Vượt qua trăm ngàn cõi

Lạy Phật, nghe pháp mầu

Nên đến thế giới Nhẫn.

Ở trong cung Đâu-suất

Các Bồ-tát mười phương

Quán sát ánh sáng này

Phật giảng pháp an chúng.

Ma, cảnh, chúng dị học

Sức tinh tấn hàng phục

Như mặt trời hoa sen

Chiếu soi khắp các cõi.

Hào quang trên thân Phật

Rọi thấu tất cả chốn

Hết thảy đến nghe pháp

Như Lai chuyển pháp luân.

Không một ai so sánh

Phật giảng kinh tối tôn

Đấng Mười Lực thương chúng

Nên chuyển xe pha pdiệu.

Đại chúng đều tập hợp

Thật khó gặp dịp may

Thành tín mong gặp Phật

Tất cả đều đến đây.

Tiếng kệ ấy vang khắp các cõi Phật mười phương, tạo mọi an ổn cho chúng sinh, chiếu soi pháp giới, trừ mọi phiền não, xua tan đêm tối, che lấp cõi ma, khiến vô số Bồ-tát cùng vô lượng quyến thuộc vân tập đến cõi Ta-bà. Lúc ấy, ở phương Đông, có cõi Vô lượng công đức bảo phước phổ từ, Đức Phật hiệu là Ly Cấu Tịnh Quang Hải Hoa Vô Đoạn Quang Ngôn Vương. Bồ-tát Thủ Tạng Hoa Chư Pháp Tự Tại và vô số Bồ-tát của cõi ấy chỉ trong nháy mắt đã biến mất khỏi cõi, hiện ra ở cõi Nhẫn nầy. Đến trước Phật, các Bồ-tát cúi lạy, đi quanh Phật, dâng cúng ngọc báu dạ quang, anh lạc lên Phật, nói kệ khen:

Đấng Mười Lực công đức

Hiểu thấu khắp mười phương

Tất cả không ai bằng

Đức lớn, đạt giải thoát.

Chúng con nay đến đây

Mong được nghe kinh pháp

Hết thảy đều nghe danh

Sư Tử Chúa, Thích-ca.

Thế Tôn luôn bình đẳng

Phóng quang chiếu tất cả

Như các pháp vốn không

Không khởi tâm sân hận.

Độ chúng sinh nguy khốn

Giúp hết thảy giải thoát

Là vua của các pháp

Như nhà ảo thuật hay.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi an tọa.

Cõi Phật Biện nơi phương Nam, có Đức Phật hiệu Vô Lượng Đức Bảo Biện. Vồ tát Bảo Trụ cùng vô số Bồ-tát bạn của cõi Phật Biện cũng trong giây lát đều hiện đến cõi Nhẫn. Đến trước pháp tòa, các Bồ-tát tung rải châu ngọc trắng cúng dường Phật, cúi lạy Phật đi quanh vạn vòng, nói kệ:

Thế Tôn biết tất cả

Thương chúng tuôn mưa pháp

Phóng ánh sáng soi rọi

Vì không chấp ta, người.

Dạy tám con đường chánh

Tiêu trừ mọi dục trần

Dùng cây pháp tịch tĩnh

Nuôi lớn châu thanh tịnh.

Với hào quang trí tuệ

Xua tan mọi u tối

Biết rõ chúng sinh mộng

Chìm đắm mãi không ra.

Vì chỉ dạy đường chánh

Khô cạn ao ái ân

Giúp đạt mắt thanh tịnh

Vượt tất cả sinh tử.

Nói xong, các Bồ-tát đều tự hóa tòa ngồi an tọa.

Cõi Chiếu diệu nơi phương Tây có Phật hiệu Phổ Minh. Bồ-tát Hiển Âm Khế Vương cùng vô số Bồ-tát rời khỏi cõi mình đi đến cõi Nhẫn. Đến nơi, các Bồ-tát dâng cúng chân châu, lạy Phật, đi quanh Phật, nói kệ khen:

Hạnh đức của Như Lai

Như cảnh giới hư không

Hạnh nguyện đều thanh tịnh

Trải qua vô số kiếp.

Thân tịnh không cấu nhiễm

Không còn các lậu hoặc

Đi lại khắp mười phương

Cõi Phậ tkhông nghĩ bàn.

Pháp Phật: Mưa đúng thời

Phật rền tiếng Phạm thiên

An vui lòng mọi loài

Tất cả đều ngưỡng mộ.

Tâm Phật không tạo nghiệp

Nhưng lại làm mọi việc

Lời của Phật giảng ra

Ứng hợp tâm chúng sinh.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi an tọa.

Cõi Chúng bảo cẩm phương Bắc có Đức Phật hiệu Vô Lượng Đức Bảo Quang, Bồ-tát Hải Giác cùng vô số Bồ-tát bạn rời cõi Chúng bảo đến cõi Nhẫn. Đến nơi, các Bồ-tát lạy Phật, đi quanh Phật, nói kệ:

Thân Phật ánh sắc vàng

Tịch tĩnh ban bố pháp

Soi sáng mười phương cõi

Tùy thuận hiện thân sắc.

Thân Phật không ai sánh

Ai nhìn thấy Thế Tôn

Diệt trừ mọi dục trần

Luôn vui vẻ, an ổn.

Đệ tử bậc Tối thắng

Chiêm ngưỡng thân sáng chói

Tất cả đều vui mừng

Phật như đỉnh Tu-di.

Đầy đủ sức thần thông

Biến hóa không lường được

Không ai có thể thấy

Đỉnh tướng của Như Lai.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi an tọa.

Cõi Vô ưu phía Đông nam có Phật hiệu là Trừ Chúng Thích Minh. Bồ-tát Phổ Diệu và các Bồ-tát bạn đều rời cõi nước này đi đến cõi Nhẫn. Tới nơi, các Bồ-tát lạy Phật, đi quanh Phật, dâng cúng vật báu, nói kệ khen:

Trong mỗi lỗ chân lông

Chứa vô số cõi Phật

Nhưng chúng sinh không khổ

Cõi nước cũng chẳng hẹp.

Hạnh cứu độ tối thượng

Phật vì chúng đui mù

Như Lai đấng vi diệu

Phóng ánh sáng chiếu soi.

Ở trong một cõi nước

Thâu tóm cõi mười phương

Các cõi nước hiển hiện

Đều không có tăng giảm.

Phật đủ phương tiện hay

Tùy thuận hội nhập cả

Biến hóa không thể lường

Đó là thần thông Phật.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi an tọa.

Cõi Thiện quán phía Tây nam, có Phật hiệu là Đại Bi Quán Chúng Sinh. Bồ-tát Tư Ư Đại Ai cùng vô số Bồ-tát rời cõi nầy đi đến cõi Nhẫn. Đến nơi các Bồ-tát cúng dường y phục quý giá, lạy Phật, đi quanh Phật, nói kệ:

Thanh tịnh trong giới cấm

Bậc Tôn quý trong đời

Ngày đêm luôn gìn giữ

Như bò yêu qúy đuôi.

Gia hộ và thương xót

Những kẻ hủy giới cấm

Không bao giờ tự khen

Không chê trách người khác.

An trụ như Tu-di

Kiên định không lay động

Trí tuệ tựa biển cả

Siêu vượt mọi thần linh.

Vượt tất cả sinh tử

Cùng ngục tối ràng buộc

Tùy thuận độ chúng sinh

Giúp thoát bệnh khổ não.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi.

Cõi Ly ám minh phía Tây bắc có Phật hiệu là Quang Tịnh Vương. Bồ-tát Quang Diệu Võng cùng vô số Bồ-tát đều rời cõi này đến cõi Nhẫn. Đến nơi các Bồ-tát dâng anh lạc báu lên Phật, lạy Phật, đi quanh Phật, nói kệ:

Tự thân hiểu sinh tử

Như ảo thuật hóa hiện

Thị hiện tạo cảm ứng

Nhưng không chấp gì cả.

Như huyễn sư biến hóa

Chúng sinh đều là vậy

Cõi ấy không thể động

Muôn loài không tự nhiên.

Như người ngủ mơ thấy

Tất cả các cảnh tượng

Tỉnh ra không có gì

Các sắc tưởng đều không.

Phật dạy pháp như mộng

Hữu vi do niệm sinh

Tất cả các pháp ấy

Không thoái lui, không về.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi.

Cõi Trụ tịnh ly cấu phía Đông bắc có Phật hiệu Không Thành Ly Cấu Tâm. Bồ-tát Giác Vô Để Ly Cấu cùng vô số Bồ-tát rời cõi này đến cõi Nhẫn. Đến nơi các Bồ-tát trổi nhạc cúng Phật, cúi lạy Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, nói kệ:

Tỏ biết tướng thâm diệu

Tất cả đều như nhiên

Quán biết các tướng không

Như tất cả các pháp.

Ba đời đều thế cả

Tâm chí của chúng sinh

Chẳng khác gì hư không

Với trí tuệ thanh tịnh.

Biết hạnh nghiệp mọi loài

Dong ruổi trong ba đời

Một tâm trong một lúc

Tỏ biết hết mọi thứ.

Không vọng tưởng chúng sinh

Tâm kiên định lìa niệm

Vì trừ hết vọng chấp

Quyền biến quán bình đẳng.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi.

Cõi Chiếu minh ở phương dưới có Phật hiệu là Thâm Thanh Liên Thủ. Bồ-tát Biện Nghiêm cùng vô số Bồ-tát rời cõi này cùng đến cõi Nhẫn. Đến nơi các Bồ-tát cúng dường châu sáng lên Phật, lạy Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, nói kệ:

Như vô số hạt bụi

Trong trăm ngàn cõi Phật

Số Bồ-tát như thế

Đều đến chỗ Như Lai.

Hết thảy đều muốn hỏi

Vô số việc cần làm

Phật dùng một văn tự

Tùy thuận đáp tất cả.

Trí Phật không thể lường

Phương tiện không gì sánh

Đủ Tổng trì, định tịnh

Công đức không bờ bến.

Công lao không thể lường

Giảng thuyết vô số kiếp

Tất cả đều ngợi khen

Không thể nào hết được.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi.

Cõi Trang nghiêm ở phương trên có Đức Phật hiệu là Danh Xưng. Bồ-tát Chư Pháp Biến Vương cùng vô số Bồ-tát bạn rời cõi này đến cõi Nhẫn. Đến nơi các Bồ-tát dâng cúng lọng phướn báu, cúi lạy Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, nói kệ:

An trụ tất cả hạnh

Hiển hóa không thể lường

Tâm Phật luôn tự tại

Hạnh Thế Tôn là vậy.

Chỉ chư Phật biết được

Chúng sinh không thể hiểu

Hư không không bờ bến

Hạnh Phật vốn là thế.

Không thể nào so sánh

Hiển hiện không giới hạn

Thành Phật giảng chánh pháp

Hóa độ mọi quần mê.

Tựa như gieo hạt giống

Nhất định có hoa trái

Chư Phật ở mười phương

Cũng không ngợi khen hết.

Nói kệ xong, các Bồ-tát tự hóa ra tòa ngồi và an tọa.

Phẩm 2: TÁN THÁN PHÁP HỘI

Chỉ trong nháy mắt của Bồ-tát ở mười phương đều tập hợp về nhiều đến nỗi không thể nào tính đếm được. Đó là do hào quang của Phật. Đức Phật liền xuất định, phóng ra ánh sáng. Từ ánh sáng vang ra tiếng pháp làm cho tất cả chúng sinh dù tin hay không tin đều phát tâm xuất gia; tất cả Đồng nam, Đồng nữ, Phi nhân, Trời, Rồng, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nghe tiếng Phật thân tâm đều thanh tịnh, cùng tôn kính Phật. Nhờ thần lực của Phật tự nhiên có cung điện báu hóa hiện. Tất cả đều hướng về pháp tòa của Phật. Đến nơi, chúng lạy Phật, đi quanh ba vòng, lại ngồi một bên. Tiếng Phật lại khuyên bảo các Phạm thiên như Phạm Nhẫn, Phạm Thân, Phạm Mãn, Phạm Độ Trước, Đại Phạm, các cõi trời Quang diệu, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Tịnh nghiêm, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Nan hoàn, Tịnh thân, Dung quả, Vô kiện, Thiện thí, Thiện sở thí, tất cả đều lập tức vân tập về cõi Phật, lạy Phật, đi quanh bảy vòng, tuần tự an tọa. Thấy đại chúng tập hợp, Phật phóng ra ánh sáng từ tướng lông trắng giữa chặng mày. Ánh sáng xoay quanh các Bồ-tát bảy vòng rồi nhập vào đỉnh đầu các Bồ-tát.

Bồ-tát Thủ Tạng Hoa Chư Pháp Tự Tại thấy ánh sáng Phật, tự nhiên đạt Tam-muội Nhất thiết trang nghiêm. Tòa báu tự nhiên biến thành tòa Sư tử, cao tám mươi ức cai, trăm ngàn tầm. Xung quanh tòa là châu báu làm lan can, y phục quý phủ trên tòa đẹp đẽ, vô số hoa thơm tung rải bên trên, trang sức đủ loại báu. Việc này làm cho các Bồ-tát tự đoạn trừ các chấp, đại chúng đều được thấy ánh sáng, vui mừng, thỏa mãn mọi nhu cầu. Bồ-tát Thủ Tạng Hoa Chư Pháp Tự Tại lại nhập định Tán Thán ban cho các cõi ác, biến hóa tòa Sư tử khác, an ổn thiền tọa. Sau đó Bồ-tát xuất định, cung kính Phật, chắp tay nói kệ khen Phật:

Ánh sáng của mặt trời

Chỉ chiếu soi cõi tục

Oai thần của Đế Thích

Chỉ vui cõi Đao-lợi.

Phạm thiên Đấng tự tại

Lại tham đắm cõi trời

Oai thân của Đức Phật

Chấn động tất cả cõi.

Phật quán biết các pháp

Tự nhiên như hư không

Như huyễn, như dợn nắng

Và tựa trăng dưới nước.

Tất cả mọi hành nghiệp

Đều không có chủ thể

Hiểu rõ như hư dối

Thấy chúng sinh thanh tịnh.

Vì tham mê sắc hình

Sắc đó từ đâu có

Tâm tánh đều tự nhiên

Tất cả đều không thật.

Hết thảy tuy thanh tịnh

Nhưng cũng là huyễn hóa

Trong cái tự nhiên đó

Hư giả nào nơi chốn.

Phân biệt biết vốn tịnh

Trong sạch không tỳ vết

Cảnh giới có từ tâm

Phật không còn dục trần.

Tư tưởng, niệm, vọng chấp

Tâm Phật đã giải thoát

Nên thấy rõ tất cả

Như huyễn hóa, giả có.

Hư không chẳng có gì

Từ đất hiện biến ra

Vô số các cõi nước

Cùng châu báu các vật.

Tất cả vì Pháp vương

Tạo nên tòa Sư tử

Phật an tọa tòa này

Giáo hóa vô số chúng.

Tòa có các lọng báu

Cờ phướn vật trang sức

Không từ đâu tạo nên

Cũng chẳng đi về đâu.

Ai hiểu rõ các pháp

Không đến cũng không đi

Vì tất cả chúng sinh

Hiện mọi việc thần biến.

Thế Tôn, tiếng Phạm thiên

Diễn giảng các pháp mầu

Đốt đuốc sáng cho đời

Thần Đức Phật khôn cùng.

Vì thương xót chúng con

Phật lên tòa Sư tử

Thuyết giảng các kinh pháp

Đoạn sinh già bệnh chết.

Các chúng đều thanh tịnh

Từ mười phương đến đây

Tuần tự an tọa cả

Lắng lòng nghe chánh pháp.

Tất cả đều phát nguyện

Xin hiểu rõ tuệ này

Như Lai lên pháp tòa

An nhiên giảng các pháp

Biết chí tánh thanh tịnh của Bồ-tát Thủ Tạng Hoa Chư Pháp Tự Tại, Phật lên pháp tòa, giảng các pháp hạnh về Bồ-tát, đạo Bồ-tát thanh tịnh, pháp lực của chư Phật, thành tựu thân quý, tự tại trong các pháp, phân biệt giảng thuyết Đà-la-ni, nhập thần thông trí tuệ, vào vị không thoái chuyển, hướng tu các định, đưa tất cả về Nhất thừa, không hủy pháp giới, căn tánh hạnh nguyện của chúng sinh, cách giáo hóa chúng sinh, trừ quân ma, tùy thuận tất cả, đoạn sáu mươi hai kiến chấp, đưa tất cả về pháp như thuận, dòng trí vô ngại, biết ái dục tà chấp, độ thoát mọi loài, diễn thuyết phương tiện quyền biến, nhập vào trí tuệ bình đẳng của Phật, không bị che lấp, không chấp pháp, nói đúng pháp, nhập vào các pháp, niệm tất cả, ứng hiện hết thảy, hiển rõ mười hai pháp nhân duyên, đủ công đức trí tuệ, chế ngự quân ma, trang nghiêm ba nghiệp Phật, thông đạt tất cả, biết bốn đế khai hóa Thanh văn, biết cách chỉ dạy hàng Duyên giác, hiểu pháp đạt trí tuệ, cảnh giới của Bồ-tát, tự tại trước mọi việc, ca ngợi Phật. Phật giảng pháp này giáo hóa các Bồ-tát để thành tựu chí nguyện, thị hiện thần biến của Phật, trừ mọi nghi chấp của đại chúng, hàng phục quân ma, hiển bày pháp Phật, trọn vẹn hạnh Phật, vì thế Phật lên tòa Sư tử giảng pháp.

Lúc ấy, Bồ-tát Bảo Tràng, nương nơi thần lực Phật nhập Tam-muội Trang nghiêm khiến cho hội chúng đều trang nghiêm cõi Phật. Bồ-tát Danh Văn Lực nhập Tam-muội Hồng liên hoa, biến tất cả hoa thành hoa pháp để cúng dường Phật. Bồ-tát Hải Giác nương vào thần lực Phật, nhập Tam-muội Chúng hương, từ mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ-tát đều tỏa ra hương chiên-đàn. Bồ-tát Minh Võng nương nơi thần lực Phật nhập Tam-muội Quang minh, phóng ra ánh sáng chiếu khắp hội chúng. Bồ-tát Đại Ai Niệm nương nơi thần lực Phật nhập định Vô thuấn. Với sức của định Bồ-tát chiêm ngưỡng Như Lai, mắt không chớp. Bồ-tát Ly Cấu Sát Vô Để nương vào uy lực Phật, nhập Tam-muội Pháp duyệt, làm cho hội chúng, yêu thích pháp, chí tâm cầu pháp. Bồ-tát Biện Nghiêm nương nơi uy lực Phật, nhập Tam-muội Nguyện tích, diệt trừ năm cái cho tất cả. Bồ-tát Biến Chư Pháp Vương nương vào uy lực Phật, nhập Tam-muội Vô hốt vong, nhớ kỹ và ưa thích đạo, hạnh Như Lai. Bồ-tát Tâm Dũng nương nơi thần lực Phật, hàng phục các ngoại đạo các ma, tất cả đều học theo Phật. Bồ-tát Hàng Chư Ma nương vào uy lực Phật, nhập Tam-muội Hủy ma tràng, với diệu lực của định làm cho trăm ngàn ức quân ma ở tam thiên đại thiên thế giới đều rời nơi ở, đến chỗ Phật, chúng lạy Phật, đi quanh Phật, cúng dường vật quý lạ, cung kính, chí tâm, chắp tay cầu Phật giảng giải, mong Phật tùy thời giáo hóa.

Chúng thưa Phật:

–Chúng con nhờ Bồ-tát Hàng Ma giáo hóa nên đến đây. Ngưỡng mong đấng Trời trong trời chứng minh, chúng con sẽ bỏ nghiệp ma, không nhiễu loạn chúng sinh. Chúng con đến đây vì chánh pháp. Xin Đức Thế Tôn cho biết chúng con sẽ về đâu.

Đức Thế Tôn quán sát tâm niệm của ma, khen:

–Lành thay, lành thay! Các ngươi đã bỏ nghiệp ma, thưa thỉnh Như Lai nêu giảng kinh pháp. Nhờ nhân duyên này các ngươi không còn thọ báo thân ma. Vì sao? Như căn phòng tối tăm suốt trăm ngàn năm, đến khi có ngọn đèn sáng thì bóng tối kia không còn. Người bị trần dục sai khiến suốt trăm ngàn kiếp, một tâm niệm lành khởi lên là làm thay đổi tất cả, trừ diệt mọi ngu tối. Một tâm niệm lành khởi lên, tùy thuận tu hành theo, sẽ trừ hết vô minh, bỏ tà chấp nơi chín mươi sáu thứ hoạn nạn. Hôm nay, các ngươi nhờ nhân khuyên thỉnh Phật giảng kinh nên dần diệt trừ vô minh ngu muội, sẽ đạt đạo Bồ-đề vô thượng.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 2

Phẩm 3: PHÁP MÔN VÔ CÁI

Bấy giờ, Bồ-tát Pháp Giáo Vương bạch Phật:

–Thế Tôn! Cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, thể hiện oai thần của Phật, làm cho các Bồ-tát không còn nghi ngờ, ai nấy đều tu tập, xin Như Lai giảng thuyết pháp môn vô cái và pháp hội. Vì sao? Vì tất cả các Bồ-tát đều tập hợp về đây, đều là những Bồ-tát mặc áo giáp công đức không thể nghĩ bàn; đầy đủ oai thần trí tuệ; công lao thấu khắp mười phương, tu hạnh thanh tịnh, tâm không cấu uế, soi sáng bằng pháp giải thoát; đều được chư Phật ngợi khen; tự tại trong các pháp; thành tựu rốt ráo các Ba-la-mật; đầy đủ phương tiện quyền xảo; diệt trừ nghiệp ma; hàng phục tà đạo; có thể phân biệt giảng thuyết về câu chương nghĩa lý trọn đầy trí tuệ vô ngại giải thoát; tự tại hành hóa, viên mãn các Đà-la-ni; kiến lập biện tài không gián đoạn; biết căn tánh của chúng sinh còn hoặc hết lậu hoặc; tùy thuận căn cơ của chúng sinh để thuyết giảng; giảng kinh pháp trừ diệt mọi lỗi lầm của chúng sinh, lời nói dịu dàng, hòa nhã hợp cơ duyên như tiếng chim loan, tiếng rồng, tiếng Phạm thiên; thương yêu chúng sinh thị hiện Niết-bàn để chúng được độ thoát; chuyên tâm tu từ Ba-la-mật; luôn đủ tâm Bi không trở ngại; kiên định ý chí; nói làm tương hợp; dựng nêu cờ pháp thị hiện mười phương, chí bền vững như kim cương, như núi Thiết vi; đủ thệ nguyện lớn; thông tỏ mười hai nhân duyên sâu xa; trừ chấp thường đoạn và sáu mươi hai tà kiến; độ thoát tất cả hướng về Đại thừa; chỉ dẫn quần mê đến nơi an lạc; suốt vô số kiếp thích pháp tu trí; là lương y chuyên trừ bệnh chúng sinh; đều là đệ tử lớn lên từ pháp Phật; không kinh sợ khi nghe pháp bí mật của Như Lai và những pháp khác; trang nghiêm thân bằng các tướng tốt; đủ tâm Từ bi; tâm dũng mãnh; hàng phục bốn ma vượt mọi cảnh giới ái dục; là chiếc cầu đưa chúng sinh qua bờ vui, thức tỉnh kẻ mê ngủ; tu tập các pháp Căn, Lực, Giác, Thiền, Giải thoát, Định, Tam-muội; siêng năng độ chúng sinh; thành tựu Đà-la-ni chế ngự tất cả; không tham chấp tám việc thế gian như khen, chê, khổ, vui, lợi, tổn, yêu, ghét; tâm vui thích nơi kinh pháp; lưu truyền pháp bảo; trọn vẹn trí tuệ, biết tất cả là rỗng lặng, hạnh thanh tịnh như hoa sen; trừ pháp hữu vi, hào quang che lấp cả ánh mặt trời, mặt trăng, Đế Thích, Phạm thiên; thành tựu Tam-muội Hải ấn; chỉ dạy bằng chánh pháp; làm cho Tam bảo được trường tồn; hiểu rõ, vượt các cõi; giữ gìn pháp bí mật của Phật, đầy đủ vô lượng công đức, danh xưng; tạo vô số nghiệp bằng trí tuệ; gần gũi, thành tựu trí Phật; hiểu thấu vô số kiếp về vị lai.

Thế Tôn! Các Bồ-tát đã thành tựu nhẫn hạnh như thế, xin Phật quán sát, giảng pháp Vô cái. Các Bồ-tát đều vân tập đến đây, mong Phật diễn thuyết tạo lợi ích cho tất cả, an trụ trong pháp Nhất thừa không thoái chuyển, hành trọn vẹn mọi pháp Phật, đạt quả một đời thành Phật. Với chúng sinh hiểu biết, phân biệt, kiên định tâm chí, nhờ thế sẽ vào sâu pháp Phật, đoạn tà chấp, trừ lưới nghi. Chúng sinh thích ba thừa, nhờ nghe Phật dạy chúng tự tu tập. Các hàng Trời, Rồng, Thần, Càn-thát-bà, Phi nhân, A-tu-la nghe pháp sẽ được độ thoát. Vì sao? Vì Phật ra đời là một việc hy hữu, kinh pháp được tuyên giảng cũng thật là khó có.

Thế Tôn! Các Bồ-tát đều đến đây, Thanh văn, Duyên giác trải qua trăm ngàn kiếp mới được có ngày hôm nay, vì vậy con nghĩ đây là việc rất khó, rất khó có. Nếu thấy thần thông biến hóa thế này tức không ai còn tu hạnh Thanh văn, phát tâm Duyên giác. Vì sao? Vì Bồ-tát vừa phát tâm là vượt hơn cả Thanh văn, Duyên giác.

Thế Tôn! Như kẻ ngu bỏ ngọc Dạ quang, giữ lấy thủy tinh, thấy việc điên đảo lại cho là đúng. Con người cũng thế, bỏ Đại thừa, cầu pháp Thanh văn, Duyên giác. Người có tánh chân thật, phát tâm Bồ-đề vô thượng, không bao lâu sẽ thành tựu trọn vẹn pháp giải thoát.

Lúc Bồ-tát Pháp Giáo Vương nói lời này, có trăm ngàn ức chúng phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Phẩm 4: TRANG NGHIÊM PHÁP BẢN

Thấy tất cả Bồ-tát và đại chúng đều vì pháp nên tập hợp về đây, Phật định giảng pháp môn Vô cái cho Bồ-tát. Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ra hào quang Vô úy biện từ tướng lông trắng giữa chặng mày. Hào quang này xoay quanh các Bồ-tát bảy vòng, sau đó xoay quanh Bồ-tát Tổng Giáo Vương trăm ngàn vòng rồi nhập vào đỉnh đầu Bồ-tát. Nương nơi thần lực Phật, ánh sáng đó lại xoay quanh các Bồ-tát trăm ngàn vòng, chiếu soi tòa Sư tử, thân Phật càng thêm uy nghiêm, Bồ-tát càng kính tín. Thấy thần thông biến hóa của Phật, Bồ-tát Tổng Giáo Vương rời tòa, trịch vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay, hóa hiện lọng báu che trên Như Lai. Nhờ thần lực của Phật, phướn lưu ly hiện ra cao vòi vọi, được trang sức bằng các tạp báu, chân châu, lụa báu đan xen, xung quanh kết bằng vàng ròng. Lọng báu đó to lớn che cả tam thiên đại thiên cõi nước. Bồ-tát dâng lọng báu, rải hoa thơm, trổi nhạc, cúng Phật, nói kệ khen Phật:

Hào quang soi rọi khắp mọi nơi

Tất cả trời người đều thấy được

Tự tại biến hóa trong các pháp

Công đức của Phật không thể bàn.

Thế Tôn phóng quang chiếu tất cả

Khẩu nghiệp thanh tịnh đủ biện tài

Ánh sáng xoay quanh trăm ngàn vòng

Lại được nhập vào đỉnh đầu con.

Y như bản nguyện chí niệm xưa

Biện tài thanh tịnh, đủ Tổng trì

Hiểu thấu tất cả không gì sánh

Nhờ ân Như Lai, Đấng Đại Hùng.

Thân Phật vòi vọi, tâm thanh tịnh

Con nay vui mừng thỏa ước nguyện

Trí Phật khôn lường không kể xiết

Gia hộ cho con đủ biện tài.

Thế Tôn uy nghiêm khó gặp được

Kẻ thiếu phước trí làm sao thấy

Nương thần lực Phật con thấy được

Ngưỡng mong Như Lai thương chúng sinh.

Hạnh nguyện của các Đại Bồ-tát

Vào trong thế gian cứu mọi loài

Hào quang của Phật rọi đến đâu

Con xin thành kính hỏi Thế Tôn.

Tất cả đại chúng đều về đây

Đều đang tu tập pháp Đại thừa

Luôn luôn cầu mong pháp vi diệu

Vì thế con xin hỏi Như Lai.

Khéo léo giữ gìn mọi hành nghiệp

Lại luôn nghe học trí Như Lai

Nay đã đúng thời xin Phật giảng

Pháp tạng bí mật cho chúng sinh.

Thân Phật sáng rỡ không gì sánh

Trí tuệ Như Lai thật khôn lường

Trí tuệ vô ngại hiểu tất cả

Vì thế con xin hỏi Thế Tôn.

Thế Tôn tự tại trong trí tuệ

Là nhờ tu tập vô số kiếp

Ngưỡng mong Như Lai vì chúng con

Giảng thuyết hạnh đức của Như Lai.

Nói kệ xong, Bồ-tát Tổng Giáo Vương bạch Phật:

–Thế Tôn! Cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, hạnh nguyện của Bồ-tát cũng không thể lường tính. Chúng con xin hết lòng nghe pháp Như Lai. Xin Thế Tôn thương xót cho chúng con biết thế nào là trang nghiêm hạnh Bồ-tát? Thế nào là Bồ-tát thanh tịnh bằng pháp sáng, xua tan màn tối tăm? Thế nào là Bồ-tát tu hạnh Từ bi, không bỏ chúng sinh. Thế nào là Bồ-tát tôn kính chánh pháp, không làm tổn hạ pháp? Thật hy hữu thay. Thế Tôn! Xin phân biệt giảng nói về hạnh, pháp của Bồ-tát như việc hàng phục quân ma, trừ nghi, vào cảnh giới Phật, đi lại trong cõi Bồ-tát, hiểu tâm chí của chúng sinh, tâm hạnh thanh tịnh, đến đạo tràng, làm trang nghiêm cõi Phật, tự tại không trở ngại trong các pháp theo lời Phật.

Phật khen:

–Hay thay! Hay thay! Chánh sĩ! Vì muốn hiểu được hạnh nguyện, trí tuệ của Bồ-tát, Phật, nên đã thưa hỏi Như Lai như vậy. Hãy lắng nghe! Suy nghĩ kỹ! Như Lai sẽ giảng nói. Bồ-tát trọn vẹn hạnh, đức sẽ tự tại trong các pháp. Bồ-tát Tổng Giáo Vương và đại chúng lắng nghe.

Phật nói:

–Bồ-tát trang nghiêm bốn pháp: Giữ gìn, không hủy giới cấm; định ý không tán loạn; trang nghiêm trí tuệ không chướng ngại; nghe nhớ các pháp Tổng trì. Thiện nam! Thế nào là trang nghiêm giới? Trang nghiêm bằng một pháp. Đó là thương yêu chúng sinh, không tổn hại, thương xót mọi loài có mạng sống, tôn trọng mạng sống, làm an vui tất cả. Lại có hai pháp là lấp đường ác, mở đường lành. Lại có ba pháp: Thân nghiệp thanh tịnh, không ô nhiễm; khẩu nghiệp thanh tịnh, lời không thô bạo; tâm thanh tịnh, không tán loạn. Lại có bốn pháp: Đạt quả như nguyện, mong gì có nấy; được như sở thích; đạt đến cùng tột của ước muốn. Lại có năm pháp: cùng nhau tu tập giữ gìn giới cấm; siêng năng trau giồi trí tuệ; chuyên tâm giải thoát không kiêu mạn, luôn tu các độ; gia hạnh chuyên tâm đạo vô thượng. Lại có sáu pháp: Không hủy phạm, không hận thù; không khiếm khuyết, không tổn hại; không nhiễm ô, không lung lạc; tu hạnh thanh tịnh không tỳ vết; học rộng nghe nhiều không theo thế tục; tu học không cần người tôn kính. Lại có bảy pháp: Thanh tịnh giới; thanh tịnh thí; thanh tịnh nhẫn nhục; thanh tịnh tinh tấn thanh tịnh thiền định; thanh tịnh trí tuệ; thanh tịnh phương tiện không phóng túng. Lại có tám pháp: biết đủ; đạt cứu cánh; đủ các pháp; giới tánh tinh mật; không bị tổn hại; thành tựu chí nguyện; không chấp trước khi gặp Phật; thông tỏ tất cả; học hỏi các pháp từ bậc Thiện tri thức. Lại có chín pháp: Không kinh sợ khi nghe trí tuệ Phật; không khiếp sợ trước mọi pháp; hiểu trí rỗng lặng; phân biệt phương tiện; sống trong thanh tịnh không khổ não; giữ gìn giới cấm như ong giữ mật hoa; thanh tịnh tâm không theo vọng tình; tâm nhu thuận không thô bạo; đạt địa điều hòa. Lại có mười pháp: Trang nghiêm thân bằng các tướng tốt; trang nghiêm khẩu nghiệp, nói làm tương hợp; thanh tịnh tâm, không bị tỳ vết; trang nghiêm cõi nước như hạnh nguyện; giáo hóa chúng sinh, thanh tịnh chí tánh; không làm việc ác, trang nghiêm chốn thọ sinh; trang nghiêm hạnh Bồ-tát, học hạnh Như Lai; trang nghiêm trí Phật nhưng không tự cao; trang nghiêm đạo tràng đủ mọi đức; trang nghiêm mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, an định giới đức, không hủy phạm. Đó là mười pháp trang nghiêm giới.

Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát trang nghiêm định? Có một pháp: Tu tâm Từ, thương yêu chúng sinh. Lại có hai pháp: Giữ gìn oai nghi; tánh ngay thật không dua nịnh. Lại có ba pháp: Không dua nịnh; tâm tánh nhu thuận; không dối trá. Lại có bốn pháp: Điều hòa không chống trái; không độc ác; không tìm lỗi người; không phạm giới cấm, không gặp tai nạn; không theo kẻ ngu muội. Lại có năm pháp: là trừ năm cái: Tham dục; sân hận; tham ngủ nghỉ, ham vui đùa. Lại có sáu pháp: Luôn niệm Phật; niệm Pháp; niệm Tăng; niệm giới; niệm bố thí; niệm Thiên. Lại có bảy pháp là không bỏ tâm đạo, tu bảy Phần giác: Niệm; trạch pháp; Hỷ; tinh tấn; tín; định; Hộ (xả). Lại có tám pháp là tám con đường Chánh: Chánh kiến; chánh mạng; chánh ngữ; chánh nghiệp; chánh niệm; chánh tư duy; chánh định; chánh tuệ. Lại có chín pháp là Bồ-tát không bỏ tâm đạo, tu tầm tứ, không tham chấp, không bỏ chúng sinh: Trừ ái dục và các nghiệp ác, an vui theo đạm bạc, tu thiền thứ nhất; tịch tĩnh, suy xét, nội tâm chuyên nhất, không tầm tứ, tu thiền thứ hai; hoan hỷ, lìa dục, an nhiên như Hiền thánh, an ổn tu thiền thứ ba; đoạn trừ khổ vui, rốt ráo thanh tịnh, không buồn vui, quán không khổ vui, tu thiền thứ tư; vượt vọng tưởng các sắc, đạt thanh tịnh thông suốt, không suy niệm, tu tập trí tệ hư không vô lượng; vượt không tưởng, tu trí tuệ thức vô lượng; vượt thức tưởng, không chấp thân, không dùng thức; vượt tất cả, không dùng thức, tu hành từ hữu tưởng, vô tưởng; vượt hữu tưởng vô tưởng, nhập tưởng, định tâm tư duy, dùng phương tiện quyền biến, không thủ chứng, giữ hạnh nguyện giáo hóa chúng sinh. Lại có mười pháp: Không sân hận; đủ hạnh tịch tĩnh; không bỏ hạnh nguyện; thích nơi thanh vắng; không mất đức; tâm điềm tĩnh; thân tâm an nhiên không so sánh; an trụ các pháp; tâm tự tại; đạt tánh Thánh hiền. Đó là mười pháp trang nghiêm định.

Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát trang nghiêm tuệ? Có một pháp: Thông hiểu các pháp. Lại có hai pháp: Không nghi ngờ; trừ tham ái. Lại có ba: Trừ ngu si; diệt vô minh; trừ ấm, giới; đoạn hết ngu tối. Lại có bốn pháp: Hiểu đoạn các khổ; thông các tập; tỏ diệt; tu đạo. Lại có năm pháp: Thanh tịnh giới nhưng không chấp; thanh tịnh định, siêng tu trí tuệ; hiểu đạo pháp vào sinh tử; thông hiểu ba đời, vượt chấp; hành chánh pháp. Lại có sáu pháp: Thanh tịnh Thí ba-la-mật: Biết mình như sóng nắng, người như giấc mộng, tâm như huyễn; thanh tịnh Nhẫn ba-la-mật: Không nói lời thô, giữ gìn lời nói, trừ oán kết luôn ngợi khen, dù bị chặt thân vẫn luôn hiện bày Pháp thân thanh tịnh; thanh tịnh Tinh tấn ba-la-mật: Không chán ghét, vào cõi sinh tử, quán tất cả như mộng, kiên định tâm chí, tùy thuận tất cả, không chấp trước; thanh tịnh Thiền ba-la-mật, biến vô minh thành trí tuệ, đưa tất cả về các pháp mà không tham chấp, siêng tu đạt thần thông; thanh tịnh Trí tuệ ba-la-mật, thanh tịnh bốn pháp hóa độ chúng sinh, đủ Đà-la-ni thọ trì chánh pháp, thanh tịnh nguyện trang nghiêm cõi Phật. Lại có bảy pháp: Tu bốn Niệm xứ không sinh diệt; tu bốn Chánh cần, thân tâm thanh tịnh; tu bốn Thần túc hiểu rõ các căn; năm Căn hàng phục quân ma, năm Lực hiểu rõ các pháp; bảy Giác phần thông đạt tất cả; tám chánh đạo không đến đi. Lại có tám pháp: Tuệ quán tịch tĩnh; quán sát các pháp; hiểu các pháp; hiểu tánh giới bình đẳng; biết các nhập vốn không dục vọng; tỏ mười hai nhân duyên không ngã; thành tín, không sân hận, thật quán các pháp. Lại có chín pháp: Biết quá khứ vốn thanh tịnh; biết vị lai tịch nhiên; biết hiện tại cứu cánh tịnh; biết rõ nghiệp báo; hiểu nhân định; khai hóa kẻ tà chấp; biết Phật bình đẳng, đạt Pháp thân; bình đẳng quán các pháp, không tham dục; biết chư Phật bình đẳng tu tập vô vi. Lại có mười pháp: Biết tất cả như mộng do mê hoặc; hết thảy mộng ảo do vọng tưởng; như ngựa hoang do phân biệt; như thật do nhân duyên, như bóng, tùy thuận căn tánh; như tiếng vọng do sự hòa hợp; pháp giới không hoại; không cố định vì không dừng trụ; căn bản không dao động; hiểu vô vi là tướng tự nhiên. Đó là mười pháp trang nghiêm tuệ. Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát trang nghiêm Đà-la-ni? Có một pháp: Ý thông đạt, không quên. Lại có hai pháp: Đủ oai nghi, thâu tóm không trái. Lại có ba: Hiểu oai nghi; nói lời thanh nhã hiểu rõ nơi về, tùy thuận phương tiện. Lại có bốn: Không chấp ngôn ngữ; lời không thô bạo; lời hòa nhã; không nói lời mỉa mai. Có có năm: Nghe tiếng bằng oai nghi; hiểu thân bằng tuệ; đạt diệu lý nơi kinh; biết người bằng pháp; vào cõi tục bằng hạnh xuất thế. Lại có sáu: Nói làm tương hợp; thành thật; không tự cao, không chấp trước; không quanh có, giữ gìn; tu tâm Từ, tùy thuận thuyết pháp; tùy thuận thế tục, giảng diễn các pháp. Lại có bảy: Đủ trí tuệ đối đáp thích hợp; tùy thuận căn cơ; nhanh nhẹn; không trở ngại; không ngừng đọng; không khiếm khuyết; tùy hạnh nghi. Lại có tám: Hiểu ngôn ngữ cõi trời; biết âm thinh loài rồng; hiểu ngôn ngữ loài quỷ thần; phân biệt ngôn ngữ của Càn-thát-bà; tỏ tiếng của A-tu-la, đạt ngôn từ của Ca-lâu-la; thông ngôn ngữ của Khẩn-na-la; hiểu tiếng nói của Ma-hầu-la và những chúng sinh khác. Lại có chín: Không chấp vô vi; tu tập không khiếp sợ; dũng mãnh, giảng pháp; đủ trí chân thật không hư dối; đầy đủ mọi pháp; tùy thuận chỉ dạy kẻ cao ngạo; chỉ dạy người chân chất; hiện sự hủy diệt với người chấp xứ; thuyết giảng tùy sở học của từng nơi chốn. Lại có mười: Tùy thuận căn tánh của chúng sinh không nói lời thô bạo; nghe pháp Phật, tu tập trí tuệ, không trau dồi trí thế gian; đủ tài thuyết giảng dù là một câu cũng giảng không cùng tận; giảng pháp không chấp; khen ngợi chư Phật; trừ bỏ việc ác, lời thô; dạy Niết-bàn không thể nghĩ bàn; nhẫn nhục với tất cả, không trở ngại bản trí; hành theo lời Phật; đủ biện tài phân biệt. Đó là mười pháp trang nghiêm Đà-la-ni.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại các ý nghĩa trên nên nói kệ:

Các bậc Thánh hiền

Trang nghiêm bốn pháp

Đó là phép tắc

Là thừa tối thượng.

Giữ giới định tâm

Trau giồi trí tuệ

Hành Đà-la-ni

Phân biệt hiểu rõ.

Được mọi chúng sinh

Tôn kính mến yêu

Giữ thân, khẩu, ý

Luôn được thanh tịnh.

Trừ hết nghi ngờ

Không chấp văn tự

Người giữ gìn giới

Trang nghiêm như thế.

Lên trời vào đời

Công đức lưu truyền

Tất cả chí nguyện

Đều được thành tựu.

Thường tu hạnh chánh

Là pháp trên hết

Giữ gìn tịnh giới

Trang nghiêm như vậy.

Sẽ được thành tựu

Định ý không loạn

Trí tuệ giải thoát

Trí tuệ của Phật.

Gần pháp vô vi

Quy nương hạnh ấy

Giữ giới thanh tịnh

Trang nghiêm như vậy .

Không thể phạm giới

Không để khuyết giới

Không đùa giới pháp

Tánh không buông thả.

Danh dự lợi dưỡng

Tất cả truyền tụng

Giữ giới thanh tịnh

Trang nghiêm như thế.

Giới đức thanh tịnh

Bố thí thuần khiết

Nhẫn nhục thanh tịnh

Tinh tấn cũng thế.

Thanh tịnh thiền định

Trí tuệ cũng vậy

Thanh tịnh phương tiện

Không sống buông lung.

An trụ kiên cố

Không bị dao động

Thông tỏ tất cả

Không ôm thù hận.

Tánh không buông, thắt

Cẩn thận giữ gìn

Giới đức thanh tịnh

Trang nghiêm như thế.

Giới luôn thuần tịnh

Không tâm thoái lui

Tâm không sinh khởi

Phiền não lo buồn.

Giữ ý và hạnh

Không hề thay đổi

Giới đức thanh tịnh

Trang nghiêm như thế.

Không lo sợ gì

Cũng không ương ngạnh

Tâm ý tịch tĩnh

Không hề chê cười.

Người phạm giới cấm

Khổ não ràng buộc

Giới đức thanh tịnh

Trang nghiêm như thế.

Tâm giữ giới cấm

Công đức khôn lường

Chí tánh hòa nhã

An ổn tâm ý.

Tự mình trang nghiêm

Các tướng tốt đẹp

Giới đức thanh tịnh

Trang nghiêm như thế.

Nói ra điều gì

Làm đúng như thế

Giữ gìn khẩu nghiệp

Trang nghiêm bảo hộ.

Tâm không tham đắm

Dục trần thế gian

Giới đức thanh tịnh

Trang nghiêm như thế.

Người này sẽ là

Trang nghiêm cõi Phật

Giáo hóa chúng sinh

Đưa về đạo lớn.

Bậc minh triết nay

Thanh tịnh cõi mình

Vì nhân duyên này

Không phạm điều ác.

Trang nghiêm bằng cách

Tôn phụng pháp Phật

Điều phục tất cả

Vào đạo tràng Phật.

Trang nghiêm mười Lực

Bốn pháp Vô úy

Trang nghiêm trí tuệ

Nhưng không kiêu mạn.

Thương yêu bảo vệ

Tất cả chúng sinh

Các bậc Trí tuệ

Thấy đạo chân chánh.

Không tâm dua nịnh

Không chấp tiểu tiết

Không theo tham dục

Sân hận ngu si.

Chí tánh mạnh mẽ

Không chấp năm cái

Tu sáu niệm pháp

Không sống buông thả.

Hành bảy Giác phần

Giữ đạo như thế

Quán sát tư duy

Thành tựu định ý.

Gần gũi cận kề

Sống trong tịch tĩnh

Tùy thời hành thiện

Không mất công đức.

An lạc tính quán

Vào chốn loạn động

Tự tại hành đạo

Gieo mầm Hiền thánh.

Không hề do dự

Không trái kinh pháp

Cũng chẳng nghi ngờ

Không bị chìm đắm.

Trừ diệt vô minh

Không sống ngu muội

Tâm tánh thành thật

Hiểu rõ trí Phật.

Giới đức thanh tịnh

Không chấp sở đắc

Trí tuệ tối thượng

Định ý thanh tịnh.

Tùy thuận hai việc

Giải thoát thanh tịnh

Không tâm kiêu mạn

Trí tuệ thanh tịnh.

Thấy rõ ba đời

Độ thoát mọi loài

Trừ diệt tham dục

Giới đức thanh tịnh.

Tuy sống thanh tịnh

Nhưng không tự cao

Người này trang nghiêm

Trí tuệ như thế.

Bố thí bằng trí

Trang nghiêm như thế

Thanh tịnh tất cả

Ba việc sau đây.

Thân mình, chúng sinh

Và việc tu đạo

Đều là mộng huyễn

Không hề chấp trước.

Dùng giới và trí

Trang nghiêm thân mình

Thanh tịnh điều phục

Cả ba việc ấy.

Thân nghiệp lời nói

Tâm niệm cũng vậy

Đều là bóng, ảo

Lại như tiếng vọng.

Đó là trí tuệ

Trang nghiêm thân mình

Nên được thanh tịnh

Ba việc sau đây.

Không ai khuất phục

Không bị dao động

Quán sát tất cả

Biết rõ Pháp thân.

Trí tuệ tinh tấn

Trang nghiêm như vậy

Lại phải thanh tịnh

Ba việc sau đây.

Không hề lười biếng

Chí tánh kiên cường

Không mong đền đáp

Tùy thuận tất cả.

Nhờ có trí tuệ

Trang nghiêm định tâm

Lại có ba việc

Thực hành thanh tịnh.

Không còn tối tăm

Bậc minh triết này

Kiến lập năm thông.

Phương tiện trí tuệ

Trang nghiêm như thế

Lại phải thanh tịnh

Ba việc sau đây.

Thọ pháp Tổng trì

Hiểu pháp bình đẳng

Chỉ pháp chúng sinh

Thanh tịnh cõi Phật.

Bằng bốn Niệm xứ

Tâm không thoái chuyển

Trong bốn Chánh cần

Không làm hai việc.

Thân tâm điềm đạm

Tu bốn Thần túc

Hiểu rõ mọi pháp

Tánh căn chúng sinh.

Vĩnh viễn không còn

Trần dục nghiệp ma

Tự tại trong pháp

Tùy thuận quyết đoán.

Không chấp đến đi

Không thấy qua lại

Thực hành oai nghi

Trang nghiêm trí tuệ.

Đạt đến nguồn căn

Thanh tịnh thiền định

Quán sát tất cả

Hạnh nguyện rộng lớn.

Hiểu rõ các ấm

Tu tập các pháp

Biết hết thảy giới

Tựa như hư không.

Vọng tình phân biệt

Rỗng lặng, không chấp

Pháp không ta người

Do nhân duyên sinh.

Hiểu rõ chân đế

Không ôm sân hận

Không có lo sợ

Nhân duyên tùy niệm.

Hiểu rõ ba đời

Không hề chướng ngại

Tỏ biết ba Tụ

Mục đích hướng về.

Biết rõ Tam bảo

Đều là một tướng

Những bậc Trí tuệ

Trang nghiêm như thế.

Biết rõ huyễn hóa

Là tướng mê hoặc

Từ đó khởi hận

Tất cả như mộng.

Lại tựa cây chuối

Là tướng mê hoặc

Các pháp không bền

Đều như bóng ảo.

Do nhân duyên sinh

Như trăng dưới nước

Chẳng khác âm vang

Từ tiếng vọng lại.

Trong pháp giới ấy

Trí tuệ không hoại

Thấu tỏ không gốc

Trí không chỗ trụ.

Pháp động không động

Vốn là như vậy

Hữu vi vô vi

Đều không hề có.

Trí tuệ sâu xa

Thanh tịnh là đạo

Trang nghiêm như thế

Đối với pháp Phật.

Không hề tham chấp

Cũng không hoặc loạn

Đời sau lại được

Thọ trì kinh pháp.

Lại thường giảng thuyết

Nghĩa lý vi diệu

Đi lại mọi nơi

Độ thoát tất cả.

Không nói lời ác

Cũng không thô bạo

Mọi lời nói ra

Đều vui lòng chúng.

Tất cả ngôn ngữ

Hợp với mọi loài

Tôn kính trí tuệ

Hiểu rõ mọi pháp.

Biết nghĩa lý kinh

Thông đạt hết thảy

Tất cả là pháp

Không chấp mình người.

Giảng thuyết mọi pháp

Để vượt thế gian

Tự trang nghiêm mình

Bằng pháp Tổng trì.

Mọi lời nói ra

Thành thật, ngay thẳng

Giảng giải mọi pháp

Hướng đến bình đẳng.

Lại làm mọi việc

Thuyết kinh pháp Phật

Hợp thời không hư

Không chấp việc làm.

Thực hành như thế

Biện tài thuyết giảng

Sớm đạt trí tuệ

Không hề trở ngại.

Không trụ vào đâu

Tùy thuận tất cả

Tự trang nghiêm mình

Chuỗi hoa thơm đẹp.

Biết rõ ngôn ngữ

Chư Thiên và Rồng

Quỷ thần, Thát-bà

Cùng A-tu-la.

Ca-lưu, Chân-đà

Ma-hầu-la-già

Lại còn hiểu rõ

Ngôn ngữ chúng sinh.

Không thấy đi đến

Cũng không dừng trụ

Trong một pháp nào

Thấy biết tất cả.

Bậc dũng mãnh ấy

Tuyên thuyết chánh pháp

Với trí tuệ sáng

Thông đạt tỏ ngộ.

Với kẻ tự kiêu

Luôn loạn tâm ý

Nghe thấy pháp ấy

Tùy thuận hợp thời.

Tự đại cao ngạo

Nghe thấy pháp ấy

Tâm luôn kiêu mạn

Không tâm sân hận.

Phân biệt giảng thuyết

Giáo pháp ba thừa

Trừ hết tâm nghi

Không để ràng buộc.

Tự thân thấy nghe

Phật và chánh pháp

Không nương tựa người

Trí tuệ như thế.

Đối với văn tự

Hiểu là cùng tận

Phân biệt thấu rõ

Không bị trở ngại.

Khen ngợi chư Phật

Công đức khôn lường

Thành tựu Tổng trì

Trang nghiêm như thế.

Nhàm chán dục trần

Trí biết không ngại

Phương tiện khéo léo

Tùy thuận giáo hóa.

Hiểu rõ tất cả

Căn tánh chúng sinh

Và pháp của Phật

Biện tài phân biệt.

Thành tựu Tổng trì

Trang nghiêm thân mình

Nhờ đạt như thế

Tiếng tốt vang xa.

Suốt trong một kiếp

Khen ngợi hạnh đức

Không thể hết được

Công đức khôn lường.

Phẩm 5: TÁM HÀO QUANG

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Tổng Giáo Vương:

–Bồ-tát có tám hào quang không thể nghĩ bàn, trừ hết ngu tối, làm thanh tịnh hạnh nguyện. Tám hào quang đó là: Niệm, chí, đi lại, pháp, tuệ, thành tín, thần thông, hành pháp.

Thế nào là Hào quang niệm? Có tám pháp: không mất đức đã tạo; ngày nay tích lũy công đức; không quên pháp đã nghe; biết nghĩa lý, phân biệt pháp hướng về; không chạy theo sáu giới, thành tựu niệm; trừ phi pháp, trọn đức lành, mạnh mẽ; được chư Phật gia hộ; hộ trì chánh pháp, chí bền vững; thành tựu các pháp.

Hào quang chí lại có tám pháp: Hiểu nghĩa lý, không tham chấp; kiên định nơi trí Phật không chấp trước; sống trong pháp không theo dục trần; siêng năng nhưng không tranh chấp; hành pháp Đại thừa không học pháp Thanh văn, Duyên giác; cầu pháp vô thượng không học Tiểu thừa; niệm Phật không chạy theo nghiệp ma; giữ tâm Từ bi không tổn hại chúng sinh.

Hào quang đi lại có tám pháp: Đến mọi nơi tuyên thuyết chánh pháp; biết căn tánh của chúng sinh; đủ tài biện thuyết; hiểu rõ mười hai pháp nhân duyên; giảng thuyết thông suốt; thanh tịnh trước sau; đầy đủ pháp Phật.

Hào quang pháp có tám pháp: Hiểu rõ, giải thoát thế gian, nhập pháp lành, giảng pháp xuất thế cho chúng sinh, thông đạt trí Phật, trừ tội lỗi, giảng pháp vô lậu, không sống trong vô minh lậu hoặc, biết rõ sinh tử tội phước, biết dục trần, không chứng dịêt tận, quán sát nguồn gốc của khách trần, làm thanh tịnh bản tâm, các pháp tịch tĩnh. Hào quang tuệ có tám pháp: Tám bình đẳng, các nẻo đạo, qua laiï chiếu soi, không thu hồi, không chấp trước, Duyên giác, trí tuệ Bồ-tát, Phật.

Hào quang thành tín có tám: Chiếu soi người chứng diệt tận; thành tín giúp ngưòi chấp quả Sa-môn thứ nhất; soi rọi kẻ chấp quả Sa-môn thứ hai; thành tín giúp người chấp quả thứ ba; chỉ dạy người chấp quả thứ tư; khuyên giải cho người chấp quả Duyên giác; chiếu soi người đạt nhẫn Bồ-tát; soi rọi người chứng quả Phật. Hào quang thần thông có tám: Soi chiếu khắp nơi; với mắt trời thấy tất cả sắc; với thiên nhĩ nghe tất cả tiếng; nhớ rõ mọi việc quá khứ; quán tâm hạnh chúng sinh như hư không; đi lại khắp các cõi Phật không trở ngại; thành tựu trí vô lậu; giáo hóa chúng sinh, giúp chúng tu pháp lành; trừ nghi ngờ kết sử của chúng sinh.

Hào quang thực hành có tám: Tuân hành trí Phật; tu trí sáng; hành chánh kiến; quán sát; biết tánh của chúng sinh; tu tâm giải thoát; không sân hận; đạt tuệ rốt ráo.

Lúc ấy, Đức Phật nói kệ:

Do nghiệp tịnh từ xưa

Tâm không hề xao lảng

Tu tập nhưng không chấp

Khuyến khích, không lười bỏ.

Nhớ kỹ pháp đã nghe

Thành tựu hạnh giải thoát

Sống tịch tĩnh đạm bạc

Mạnh mẽ trừ phi pháp.

Biết rõ các pháp môn

Chọn lựa nghiệp để làm

Người dũng mãnh biết rõ

Tự tại xây dựng nên.

Giữ gìn thành chánh pháp

Bình đẳng với chúng sinh

Bậc trí trừ si ám

Lợi ích mọi quần sinh.

Sớm thành tựu trí sáng

Quyết đoán không do dự

Chí mạnh trí tự tại

Sớm chứng đạt quả Phật.

Sống theo lý pháp mầu

Không buông thả phóng túng

Bậc trí không chấp trước

Không vướng nơi văn tự.

Chí đặt trong nơi pháp

Điều phục trừ dục, si

Đủ trí trọn chánh pháp

Không tranh trụ trong đạo.

Ý chí giữ đạo pháp

Không học pháp Nhị thừa

Tu tập pháp vi diệu

Không nhớ pháp Tiểu thừa.

Tư duy đạo pháp Phật

Không học đạo của ma

Luôn giữ tâm Từ bi

Không nhiễu loạn chúng sinh.

Tuyên thuyết tất cả pháp

Nhất định không nghi ngờ

Tùy thời độ chúng sinh.

Làm mọi việc thế gian

Đủ biện tài phân biệt

Trí tuệ không chướng ngại

Hiểu rõ pháp nhân duyên

Mọi pháp do duyên sinh.

Trọn trí tuệ phương tiện

An trụ tất cả pháp

Thâm nhập hết thảy pháp

Của chư Phật Thế Tôn.

Soi rọi pháp thế gian

Biết rõ nghiệp chúng sinh

Trí tuệ vượt thế gian

Hùng mạnh là trí sáng.

Không gây tạo các tội

Tu trí vốn thanh tịnh

Tuân hành các đườnhg chánh

Giảng nghiệp không tội lỗi.

Trong lậu không lậu hoặc

Ánh sáng pháp trí tuệ

Trừ hết thảy các lậu

Lợi lạc mọi chúng.

Nơi hữu số vô số

Pháp luôn gắn nơi huệ

Không cấu nhiễm, tối tăm

Hành hạnh diệt tận định.

Với mọi dục, tranh chấp

Trí sáng không trở ngại

Hiểu rõ các dục trần

Tâm tánh vốn thanh tịnh.

Trí thông đạt rốt ráo

Tịch tĩnh, không sinh khởi

Tất cả không hạn lượng

Đại thừa nghiệp sáng soi.

Với tám tuệ bình đẳng

Thành tựu quả thứ nhất

Hiểu rõ sự đến đi

Phân biệt không chứng đắc.

Không chấp pháp Duyên giác

Bồ-tát luôn độ đời

Trí sáng thông đạt cả

Hiểu rõ pháp Thánh hiền.

Thành tín biết vô lượng

Mạnh mẽ để tu tập

Trọn vẹn được đạo quả

Không sân, quả thứ nhất.

Hạnh nguyện rất thành tín

Nhập quả Tu-đà-hoàn

Quả thứ hai, ba, bốn

Và quả của Duyên giác.

Nếu được sức gia hộ

Chứng pháp nhẫn bình đẳng

Đạt đạo quả tối thắng

Thành tín biết tất cả.

Với đôi mắt cõi trời

Thấy chư Phật mười phương

Thành tựu sức Thiên nhĩ

Nghe âm thanh mọi loài.

Biết rõ mọi nghiệp hạnh

Của đời trước bằng trí

Tùy thuận biết tâm người

Tuệ thanh tịnh sáng soi.

Qua vô số cõi Phật

Thần túc rọi mười phương

Đi lại như hư không

Đạt tuệ sáng vô vi.

Công đức thật khôn lường

Thần thông độ chúng sinh

Trí tuệ không chướng ngại

Trừ diệt hết nghi ngờ.

Phụng hành theo chánh pháp

Chí mạnh soi tuệ pháp

Tỏ biết không giới hạn

Đều là nhờ thần thông.

Tu hành trí tuệ Phật

Ý lớn, đủ biện tài

Quán sát bằng chánh kiến

Rốt ráo không hận, sầu.

Thanh tịnh trong tám pháp

Hào quang không cùng tột

Tuy chưa trọn quả Phật

Luôn làm việc của Phật.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Phẩm 6: ĐẠI BI

Phật bảo Bồ-tát Tổng Giáo Vương:

–Bồ-tát thành tựu mười sáu việc độ sinh bằng tâm đại Bi, mười sáu việc là Bồ-tát không chấp thân, với chúng sinh tà chấp, Bồ-tát thuyết giảng kinh pháp trừ mê hoặc nghi ngờ. Chúng sinh điên đảo hư dối, vô thường cho là thường, khổ tưởng là vui, không thân chấp thân, trống không cho là tịnh, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp trừ hết mọi điên đảo của chúng. Chúng sinh chấp ngã, không hình sắc cho là có hình sắc, Bồ-tát giảng pháp giúp chúng đoạn chấp ngã. Chúng sinh bị năm cái che lấp, chìm trong dục vọng rất nguy hiểm, ngủ mê trong vô minh, giả dối nghi ngờ, không hiểu pháp sâu, Bồ-tát giảng về vô minh, diệt trừ năm cái (ngăn che). Chúng sinh sống trong sáu tình, mắt chấp hình sắc, lo trang sức, tai tham tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân tham tiếp xúc, ý tham pháp, Bồ-tát Từ bi giảng pháp, giúp chúng sinh từ sáu tình (căn). Chúng sinh cao ngạo tự đại, cho mình là hơn, giả dối, đôïc hại, khinh khi mọi người, tự cho mình hành chánh đạo, tự cho thuộc gia đình quý tộc, sắc diện xinh đẹp, luôn buông thả với sở thích, chưa đạt cho là đạt, không hiền tài lại ghét bậc Hiền tài, không đủ Thánh đức lại ghét bậc Thánh đức, sống trong tà chấp lại cho là an trụ nơi chánh đạo, Bồ-tát khởi tâm Từ bi giảng pháp trừ bỏ kiêu mạn; chúng sinh tham chấp ân ái, giả tạm, tham vợ, con, gia nghiệp, vội vàng đuổi theo, Bồ-tát khởi tâm Từ bi giảng kinh pháp trừ chấp ân ái. Chúng sinh tranh giành thù hận, giận dữ, chấp chặt, Bồ-tát Từ bi giảng kinh pháp trừ sân hận. Chúng sinh thích gần bạn ác, xa bạn tốt, tạo nghiệp ác, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp giúp chúng trừ bỏ bạn ác, gần bạn lành. Chúng sinh keo kiệt, tham đắm của cải, xa trí Phật; Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp giúp chúng bỏ tâm tham tiếc, gần trí Phật. Chúng sinh sống trái đạo, chấp thường đoạn, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp giúp chúng hiểu rõ về pháp nhân duyên. Chúng sinh vô minh, ngu muội, chấp ngã, chúng sinh, thọ mạng, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp giúp chúng trừ tà chấp, đạt mắt thanh tịnh của Phật, Bồ-tát. Chúng sinh mãi chìm trong sinh tử, bị giặc năm ấm năm dục điều khiển, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp giúp chúng trừ tham chấp ba cõi. Chúng sinh bị nghiệp ma ràng buộc, vọng chấp về ta và sở hữu của ta, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp giúp chúng giải thoát mọi ràng buộc. Chúng sinh đóng cửa giải thoát, mở cửa cõi ác, Bồ-tát Từ bi thuyết giảng kinh pháp, mở cửa Niết-bàn. Thiện nam! Đó là mười sáu việc gia hộ chúng sinh bằng tâm Từ bi của Bồ-tát.

Phẩm 7: GIÁO HÓA

Khi ấy, Đức Phật bảo Bồ-tát Tổng Giáo Vương:

–Bồ-tát lại có ba mươi hai việc tu nghiệp lành trừ tội ác: Chúng sinh tự cao, tham mê ngủ nghỉ, chấp thân, Bồ-tát dùng trí tuệ giáo hóa, đưa chúng vào đạo; chúng sinh hành pháp Tiểu thừa, chấp ta người, Bồ-tát khuyên dạy chúng tu pháp Đại thừa vi diệu; chúng sinh sống trái pháp, chấp tà, chấp thân, Bồ-tát giáo hóa giúp chúng thích chánh pháp; chúng sinh không làm thanh tịnh giới đức, Bồ-tát thanh tịnh thân nghiệp, tâm tánh thuận hợp để giáo hóa chúng sinh; chúng sânh sống trong sáu mươi hai kiến chấp, Bồ-tát giáo hóa bằng trí Thánh hiền; chúng sinh vô minh, điên đảo, Bồ-tát giáo hóa chỉ dạy trí sáng, tùy thuận, nhu hòa; chúng sinh xa lánh chánh pháp, Bồ-tát tự tu pháp Phật để giáo hóa, tùy thời cơ giảng pháp; chúng sinh tham tiếc, Bồ-tát tu hạnh bố thí, ban cho tất cả, giúp người bỏ tham, biết bố thí; chúng sinh phạm điều ác, không thận trọng, Bồ-tát giữ giới để độ chúng; chúng sinh thích tranh chấp, thù hận, Bồ-tát tu hạnh nhẫn nhục, Từ bi để độ chúng; chúng sinh lười biếng, Bồ-tát siêng năng, sớm hôm tu tập để độ chúng; chúng sinh buông lung, tán loạn, Bồ-tát định tâm giúp chúng an định; chúng sinh ngu si, kiêu mạn, Bồ-tát tu trí, trừ ngu, giáo hóa chúng bằng trí; chúng sinh sống trái thời, tự hoại mình, Bồ-tát dùng phương tiện tu hạnh bình đẳng, giáo hóa chúng; chúng sinh sống trong dục trần, vọng tưởng, bất tịnh, làm việc không nên làm, Bồ-tát tự đoạn ân ái, giáo hóa trừ diệt ô uế; chúng sinh tham thân đến nỗi chịu ràng buộc trong hình ngục, Bồ-tát không tham thân, giáo hóa chúng sinh trừ điên đảo tham chấp; chúng sinh không định tĩnh, không tuân giới luật, chưa giải thoát, Bồ-tát điều phục thân tâm, phụng hành giới luật để giáo hóa chúng; chúng sinh không hiếu thuận, quên ân nghĩa, tổn hại công đức, Bồ-tát hiếu thuận, biết đền ân, bảo hộ căn lành để độ chúng; chúng sinh sống trong sự che lấp, thuận theo tà giáo, Bồ-tát vượt mọi trở ngại để độ chúng; chúng sinh sống theo pháp ác, không nghe lời Phật, Bồ-tát, Bồ-tát hành pháp lành, thuận bậc Trí để giáo hóa mọi loài; chúng sinh sống trong phi nghĩa, hư dối, giong ruổi, Bồ-tát tùy thuận nghĩa lý, làm việc đức để giáo hóa chúng; chúng sinh sống nghèo khổ, xa pháp tài Hiền thánh, Bồ-tát tu pháp không nghèo, thuận bảy Thánh tài (tín, giới, hổ, thẹn, nghe, thí, trí tuệ) để giáo hóa họ; chúng sinh sống trong tật bệnh, Bồ-tát trừ bốn độc, thân an ổn, không dục vọng để độ chúng trừ bệnh, thoát nạn; chúng sinh sống trong tối tăm, xa lánh trí sáng, Bồ-tát tu trí để độ chúng; chúng sinh trôi trong ba cõi, năm đường, luân chuyển không thôi, Bồ-tát không chấp ba cõi, giáo hóa chúng sinh, chặt đứt sợi dây ba cõi; chúng sinh sống trong tà đạo, Bồ-tát tự tu chánh đạo để độ chúng vào đường chánh; chúng sinh tham thân, mạng, không thấy hoạn nạn, Bồ-tát không tiếc thân mạng, thấy rõ nguyên nhân của hoạn nạn, giáo hóa chúng sinh không chấp thân, biết hoạn nạn; chúng sinh xa lánh Phật, Pháp, Tăng, Bồ-tát tu hành không đoạn giống Tam bảo, giúp chúng tùy thuận ba ngôi báu; chúng sinh bỏ chánh pháp, Bồ-tát hộ pháp để độ sinh hộ pháp, thuyết giảng pháp Phật, giúp chúng sống trong chánh pháp; chúng sinh xa Phật, không tu sáu niệm, Bồ-tát hành sáu niệm để giúp chúng hành theo; chúng sinh mãi tạo nghiệp trần lao, Bồ-tát trừ tội lỗi giúp chúng diệt tội, chúng sinh làm ác, xa lánh pháp lành, Bồ-tát tu pháp lành, bỏ pháp ác để độ chúng an trụ nơi pháp chân chánh, nhu thuận. Thiện nam! Bồ-tát hành hạnh bình đẳng, làm mọi việc như thế mới có thể bảo hộ chánh pháp của Phật.

Phẩm 8: ĐẠO TUỆ

Phật bảo Bồ-tát Tổng Giáo Vương:

–Thiện nam! Hành nghiệp của Bồ-tát không thể tính đếm. Vì sao? Chúng sinh tham dục, tranh chấp, Bồ-tát lại tu tập tích lũy công đức, tu tập các hạnh. Thiện nam! Giả sử chúng sinh trong hằng hà sa cõi Phật đều hành hạnh Thanh văn, Bích-chi-phật vẫn không bằng công đức phát tâm của Bồ-tát, dù chỉ là một phần trong trăm ngàn vạn phần vẫn không thể so sánh được. Vì sao? Vì bản tánh vốn không dục trần. Thanh văn, Duyên giác trụ trong sự hòa hợp, Bồ-tát tiêu trừ tất cả sự hòa hợp dục trần của chúng sinh. Thiện nam! So với nghiệp của chúng sinh, công đức của Thanh văn, Duyên giác, hạnh của Bồ-tát là hơn hết. Vì sao? Vì phàm phu tạo nghiệp từ sự điên đảo, Thanh văn, Duyên giác vẫn tùy tập duyên, hạnh của Bồ-tát không có điên đảo, công đức khôn lường, vì thế Bồ-tát hơn Thanh văn, Duyên giác, chúng sinh.

Nghe Phật dạy Bồ-tát Tổng Giáo Vương vui mừng khôn tả, phát tâm lành, khen ngợi lời Phật thật hy hữu, khó ai bì kịp:

–Như Lai đã giảng về sự trang nghiêm, hào quang, tâm Từ, việc độ sinh của Bồ-tát. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn thương xót giảng giải: Tâm Từ bi của Phật đối với chúng sinh, việc làm của Phật, vi diệu thay Thế Tôn. Như Lai thấy biết tất cả, hiểu được các nghiệp, xin phân biệt giảng nói cho chúng con.

Phật nói:

–Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Như Lai sẽ giảng nói về tâm Từ bi, hạnh nguyện và sự thuyết giảng giáo hóa của Phật.

Thiện nam! Chư Phật, Thế Tôn không khởi tâm Bi, cũng không thực hành. Vì sao? Vì chư Phật luôn sống trong tâm Bi, không bỏ chúng sinh, tích lũy vô số công đức. Vì thế không thoái chuyển, không bỏ chúng sinh. Đó là tâm Bi của Phật. Tâm Bi đó rộng lớn, không thể tính đếm, không thể so sánh, không có chỗ chứa, từ xưa đến nay không ai nói hết. Vì sao? Như Lai thành đạo, luôn sống trong Từ bi, thương yêu chúng sinh. Như pháp Phật, tâm bi cũng thế. Thế nào là sự thành tựu đạo quả của Như Lai? Không gốc, không trụ là thành đạo. Trong đạo đó có gì là gốc là trụ. Nếu chấp thân là gốc thì thuộc tư tưởng không thành. Vì thế, Như Lai tùy thời thành đạo nên không gốc, không trụ. Vì vậy Như Lai thành tựu chánh giác, biết tất cả chúng sinh không trụ, không gốc, hiểu rõ nguồn cội, tùy thuận giảng thuyết, giúp chúng tỏ ngộ. Vì vậy Như Lai luôn thương yêu chúng sinh. Thiện nam! Đạo là sự tịch tĩnh, điềm tịnh. Nghĩa là đối với bên trong là tịch tĩnh, đối với bên ngoài là điềm tịnh. Vì sao? Vì mắt rỗng lặng, không có ta, không có thọ nhận, tai mũi lưỡi thân tâm cũng rỗng lặng, không có ta, không có thọ nhận. Biết được mắt rỗng lặng nên không chạy theo sắc. Đó là tịch tĩnh. Tai, mũi, lưỡi, thân tâm cũng rỗng lặng, biết như thế nên không chạy theo các pháp. Đó là điềm tịnh. Chúng sinh không hiểu rõ tịch tĩnh và điềm tịnh nên dạy cho chúng biết. Vì thế Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo vốn tịnh, cũng rất rõ ràng. Tịnh tức là tâm vốn thanh tịnh. Nghĩa đó ra sao? Tịnh là không chấp trước, không sai phạm, bình đẳng như hư không. Hư không vốn tịnh nên chẳng khác đạo. Vì đạo như hư không nên gọi là không là đẳng tụ. Tuy tịnh nhưng lại rất rõ ràng nên gọi là vốn tịnh và rõ ràng. Phàm phu không thật biết, bị khách trần ô nhiễm, ta giúp chúng hiểu rõ việc ấy nên Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không siêng năng, không lười biếng. Nghĩa là tóm thâu tất cả pháp là không siêng năng, đã đầy đủ tất cả pháp nên Như Lai không thấy có siêng năng, cũng không thấy có không siêng năng, vượt tất cả sự chấp chặt. Hơn nữa, Như Lai đối với các pháp không thấy sinh tử không thấy có Niết-bàn, trừ chấp kia đây. Như Lai hiểu rõ các pháp nên thành Chánh giác, được tôn là Như Lai. Đó là không siêng năng, không lười biếng. Phàm phu ngu si không hiểu điều ấy, Như Lai giảng thuyết giúp chúng hiểu rõ. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không vọng tưởng, không nhân duyên. Nghĩa là mắt đối với thức không nắm bắt là không vọng tưởng, không thấy sắc là không nhân duyên, tai mũi miệng thân tâm cũng thế, không nắm bắt không vọng tưởng, không thấy các pháp là không nhân duyên. Không vọng tưởng không nhân duyên là hạnh của Hiền thánh. Thế nào là hạnh Phật? Vào ba cõi nhưng không tạo nghiệp, ở đây cũng không tạo nghiệp là hạnh Phật. Phàm phu không hiểu hạnh Phật, nên Như Lai chỉ dẫn giác ngộ cho chúng. Vì thế Như Lai thường Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không có quá khứ, vị lai, hiện tại, bình đẳng như ba đời, trừ ba chấp. Nghĩa là tâm không chạy lui theo quá khứ, tuệ không hướng về tương lai, tâm ý thức không dừng ở hiện tại, không nhớ quá khứ, không nghĩ vị lai, không đùa với hiện tại, hiểu được ba đời là trừ ba chấp. Phàm phu không hiểu hạnh Thánh hiền, ta giác ngộ chúng để chúng biết được. Vì thế Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không có thân, không có số, không mắt, không tai, mũi, miệng, thân ý thức. Cái hiểu được là vô vi vô số. Vô vi là không sinh diệt, không nơi chốn, trừ ba tướng. Từ vô vi hiểu hữu vi cũng thế. Vì sao? Vì tất cả những gì hiện có đều là tự nhiên, không sở hữu, không hai. Vì vậy không thân, không làm. Phàm phu ngu si không hiểu được nên ta giác ngộ chúng để chúng nhận biết. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không có dấu tích, không thể hoại. Thế nào là dấu tích, không thể hoại? Không gốc, là dấu tích. Không nơi trụ là không thể hoại; cảnh giới là dấu tích, không ngã là không hoại; bản tế là dấu tích, không động là không hoại; rỗng lặng là dấu tích, không hoạch là không hoại; không tưởng là dấu tích, không niệm là không hoại; không nguyện là dấu tích, không nơi chốn là không hoại; Niết-bàn là dấu tích, không hủy là không hoại. Đó là không hoại dấu tích. Phàm phu không thể hiểu được, nên ta giác ngộ chúng để chúng nhận biết. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không từ thân mà thành Chánh giác, cũng không từ tâm. Vì sao? Thân là ngu muội, như cỏ, cây, tường, vách, ngói, đá, bóng; tâm là huyễn hóa. Biết như vậy về thân tâm là đạo, chỉ mượn ngôn ngữ để nêu. Đạo không có ngôn ngữ, không thân tâm, không phải pháp, phi pháp, không phải đạo, phi đạo, không thành thật, không lừa dối. Vì sao? Đạo không thể nói, trong tất cả pháp không có đạo, không có nơi chốn, trong ngôn ngữ nhưng không thể nói năng, như hư không không có nơi chốn, không nơi dừng, không ngôn ngữ. Đạo cũng vậy không có nơi dừng, không ngôn ngữ. Từ trong các pháp tìm xét kỹ về đạo thì không có văn tự, pháp cũng không có ngôn ngữ. Hiểu được các pháp không ngôn ngữ là biết xuất xứ của các pháp. Phàm phu ngu si không hiểu, nên ta giúp chúng hiểu. Vì thế Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không nắm bắt, không nương tựa. Nghĩa là đoạn nhãn thức không nhận sắc, không chứng đắc, với tai, mũi, thân, ý, khẩu khi đoạn thức thì không nhận, không chứng đắc. Các pháp không có được nên không có nương tựa. Vì thế Như Lai không thọ nhận, không nương tựa, thức không thoái lui. Tai đối với tiếng, mũi, miệng, thân ý đối với hương, vị, xúc, pháp cũng không nương tựa, thức không thoái lui. Đã không trụ thức thì có thể phân biệt được nơi chốn tâm tánh của tất cả chúng sinh. Thế nào là nơi chốn tâm của chúng sinh? Có bốn: Sắc, thống dương (thọ), tư tưởng (tưởng), sinh tử (hành). Tất cả đều không có nơi dừng. Như Lai hiểu rõ không có nơi dừng. Phàm phu không hiểu nên Như Lai giác ngộ để chúng hiểu. Vì thế Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo là rỗng lặng. Vì tất cả các pháp đều rỗng lặng. Như Lai hiểu sự rỗng lặng ấy, hiểu tất cả pháp nên thành Chánh giác. Sự rỗng lặng lại là rỗng lặng, vì thế thành Chánh giác.

Với trí tuệ đó Phật phân biệt việc rỗng lặng, biết không có hai. Nghĩa là sự rỗng lặng và trí đạo không hai. Vì không có hai pháp nên không hai. Đã không hai thì không danh, tưởng, hạnh, căn nguyên, lưu truyền, nói năng, có nương nhận là có nơi hướng về, không phải là chưa đến. Có pháp nào là sắc là không. Không là như hư không. Hư không không thể nói năng là không. Sự rỗng lặng cũng không thể nói năng. Tất cả các pháp đã như thế, không danh, không ngôn ngữ, không kiêu mạn, nơi chốn cũng không nơi chốn. Vì thế tất cả các pháp nói ra đều không có ngôn ngữ, cũng không phải không ngôn ngữ. Sinh cũng thế, không chánh tà. Như Lai không sinh, hiểu rõ không gốc. Sự hiểu biết, sự giải thoát của Như Lai không trói mở, là bình đẳng. Phàm phu không hiểu, ta giúp chúng hiểu. Vì thế Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo như hư không. Hư không không bình đẳng, không nghiêng lệch. Nếu chấp vào sự bình đẳng thì không thành đạo. Từ sự không bình đẳng, không nghiêng lệch, Như Lai hiểu biết tất cả pháp không gốc tích nên thành Chánh giác. Với các pháp, Như Lai không chấp là chính là tà. Pháp đã vậy, trí tuệ cũng vậy. Với pháp, Phật có thọ nhận gọi là có, là quy về, không thọ nhận gọi là không, không chủ tể, tự nhiên thành tựu. Ngoài tự nhiên không có đi lại, không tiến thoái. Nếu có tiến thì có đoạn trừ. Như Lai thuyết pháp đoạn các chấp đó. Phàm phu không hiểu, ta giúp chúng hiểu. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo là dấu thật, vì như đạo sắc cũng vậy, không gốc không thoái lui. Thọ tưởng hành thức cũng không gốc, không thoái chuyển; Đất nước lửa gió cũng không thoái lui; mắt, tai, mũi, thân, khẩu, ý pháp sắc cũng không gốc, không thoái lui, các pháp không phân biệt ba đời. Như Lai hiểu chân đế của các pháp nên thành Chánh giác. Sự hiểu biết đó vượt ngoài điên đảo. Laiï nữa, trong quá khứ, vị lai, hiện tại không có gốc, không thoái chuyển. Gốc đó không có nơi sinh. Các pháp khác cũng vậy, nên gọi là dấu chân thật. Một việc là thế, tất cả việc đều thế. Tất cả việc đã vậy, một việc cũng vậy, đều không thể đắc. Phàm phu không hiểu biết, Như Lai giúp chúng hiểu. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo là nhà, không là nhà. Thế nào là nhà, là không nhà? Tu hành tất cả pháp lành là nhà. Không nắm bắt các pháp là không nhà. Vì tâm không dừng, không nơi chốn, không tưởng, không Tam-muội, không giải thoát. Quán sát, tưởng niệm, tính đếm, so sánh là nhà. Không biết là không nhà, quán sát hữu vi là nhà, quán sát vô vi là không nhà. Hiểu không nhà là đạo. Phàm phu không hiểu nên Như Lai giúp chúng hiểu. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo không khuyết lậu, không thọ nhận. Nghĩa là trừ bốn lậu hoặc là không lậu (bốn lậu: dục, hữu, si, kiến). Không thọ là trừ bốn thọ: Dục, hữu, kiến, giới. Bốn thọ đều thuộc vô minh, ân ái, nó từ bên trong khởi phát. Như Lai trừ thọ bên trong. Vì bên trong thanh tịnh nên hướng chúng sinh thanh tịnh. Bên trong thanh tịnh là không vọng tưởng, không điên đảo, chỉ có nhu thuận, không trụ nơi vô minh không trụ nơi mười hai số, không thọ sinh, tịch tĩnh, không nghĩa lí, là Đệ nhất nghĩa, cùng tột, không người, không nắm bắt, là đạo Như Lai, là mười hai nhân duyên, là pháp, là thấy duyên sinh, thấy pháp, thấy Như Lai. Quán sát biết tất cả không có gốc, không có ngọn, không thể thấy. Thế nào là sở hữu? Không thấy nhân duyên trong vọng tưởng. Đó là sự hiểu biết của Như Lai. Tất cả các pháp đều bình đẳng, không thiên lệch, không lậu hoặc, không thọ nhận. Phàm phu không hiểu nên Như Lai giúp chúng hiểu. Vì vậy Như Lai luôn Từ bi với chúng sinh.

Thiện nam! Đạo thanh tịnh không cấu, nhiễm. Nghĩa là: rỗng lặng là thanh tịnh, không vọng tưởng là trừ cấu, không nguyện là không nhiễm; không sinh là thanh tịnh, không dơ là trừ cấu, không khởi là không nhiễm; bản tánh thanh tịnh, giải thoát không nhiễm; không phóng dật là thanh tịnh; không đùa bỡn là trừ cấu, tịch tĩnh là không nhiễm; không gốc là tịnh, pháp giới hiển hiện vốn không nhiễm; hư không thanh tịnh, hư không không cấu nhiễm; trí tuệ không chấp quá khứ là tịnh, không khởi vị lai là không cấu, không phân biệt hiện tại trụ trong pháp giới là không nhiễm. Đó là thanh tịnh, không cấu nhiễm, trụ trong một pháp bình đẳng, tịch tĩnh, điềm nhiên, nhân hòa.

Thiện nam! Đạo như hư không; pháp như đạo; chúng sinh như pháp; quốc độ như chúng sinh; Niết-bàn như quốc độ. Tất cả các pháp như Niết-bàn tịch tĩnh. Trong bộ tộc không thấy bộ tộc là thanh tịnh, không cấu nhiễm. Như Lai biết các sắc vốn không hình sắc nên thành Chánh giác. Như Lai quán cõi chúng sinh không sạch dơ. Đó là lòng Từ bi tạo thức tỉnh cho chúng sinh của Như Lai. Như Lai dùng phương tiện quyền biến cảm ứng đến cõi Phạm thiên, vì không thỉnh thì Như Lai không chuyển pháp luân. Lúc ấy, sáu vạn tám ngàn chúng Phạm thiên đều rời khỏi cõi trời, đến vườn Nai thuộc thành Ba-la-nại để thỉnh Thế Tôn thuyết pháp.

Phạm thiên thưa:

–Thế Tôn! Xin giảng kinh pháp. Nhờ nghe pháp, nhiều chúng sinh được hóa độ.

Phạm thiên nói kệ khen Phật:

Tất cả các pháp

Tịch nhiên điềm tĩnh

Thanh tịnh thuần khiết

Không nhơ không nhiễm.

Không thể nắm bắt

Không tiếng, không làm

Với trí tuệ đạo

Phật biết hết thảy.

Trái vô số kiếp

Thương yêu cứu độ

Siêng năng khó lường

Luôn luôn tinh tấn.

Mong được giáo hóa

Chúng sinh mê họăc

Chìm trong giấc ngủ

Vô minh che lấp.

Có nhiều chúng sinh

Từng tích công đức

Siêng năng tu tập

Đến chỗ Thế Tôn.

Tất cả đều biết

Chánh pháp vi diệu

Ngưỡng mong Như Lai

Tùy thời thuyết pháp.

Hàng phục thâu nhiếp

Hết thảy quân ma

Tùy cơ giáo hóa

Ban pháp cam lồ.

Vì mọi chúng sinh

Giảng pháp Hiền thánh

Ngưỡng mong Đạo sư

Chỉ rõ đường đi.

Thành tựu chánh giác

Lòng thương vô tận

Rủ xuống mọi loài

Giảng kinh vi diệu.

Ngày nay chúng con

Kính thỉnh Như Lai

Mong nghe pháp mầu

Bánh xe đạo pháp.

Được Phật vần xoay

Nhờ ân đức nầy

Như Câu-na-hàm

Phật giảng kinh pháp.

Như Phật Ca-diếp

Chuyển xe chánh pháp

Ngưỡng mong Thế Tôn

Tuyên thuyết kinh pháp.

Như trời tuôn mưa

Nhuầm thấm tất cả

Cỏ cây tốt tươi

Lúa má chín đều.

Phật tuôn mưa Từ

Thấm khắp thế gian

Như Lai tuôn ra

Nước mưa chánh pháp.

Từ lúc thọ sinh

Đã báo điềm lành

Và tự thệ nguyện

Độ hết chúng sinh.

Tất cả về đây

Đói khát cầu xin

Xin ban pháp vị

Cho mọi chúng sinh.

Phật nói:

–Thiện nam! Phạm thiên thiết tha thỉnh cầu ta như thế. Vì lòng Từ bi Phật đã giảng pháp vô thượng tại vườn Nai thuộc thành Ba-lanại. Sa-môn, Phạm chí, Ma, Thần, Phạm thiên, Trời, Người không ai chế phục được.

Lời Phật là lời vi diệu, vang khắp tam thiên đại thiên cõi nước. Tỳ-kheo Câu-luân là người đầu tiên hiểu pháp. Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Thâm diệu không thể đạt

Tối tôn, không tạo tác

Câu-luân hiểu nghĩa mầu

Trừ hết mọi kết sử.

Lúc Phật giảng lời này, có vô số chúng sinh thọ nhận giáo pháp phát khởi đại Bi, vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Thiện nam! Như Lai nêu mười sáu việc Từ bi đối với chúng sinh của chư Phật. Song hạnh Từ bi ba-la-mật của Phật thì không thể nào tính đếm được. Tùy từng chúng sinh Như Lai cứu độ; hằng hà sa số kiếp Như Lai luôn cứu khổ nơi địa ngục, không thoái tâm, dùng mọi phương tiện làm cho chúng sinh tin học luật, pháp của các Hiền thánh. Vì chúng sinh Như Lai thị hiện vô số thân hình, chịu khổ thay chúng học pháp Phật. Như Lai không mỏi mệt, không chán ghét, không trái lòng Từ. Thiện nam! Lòng Từ bi của Như Lai vòi vọi như thế.

Thiện nam! Hàng Thanh văn luôn sợ khổ, lòng Từ chỉ là bên ngoài da. Lòng Từ của Bồ-tát vào đến xương cốt lòng Từ của chư Phật là không cùng không tận. Phật thường khuyên tất cả cầu trí Phật, dạy Thanh văn phát tâm hành đạo Từ bi của Bồ-tát. Lòng Từ của Phật có từ trí tuệ. Lòng Từ của Thanh văn bắt nguồn từ tâm thương yêu. Lòng Từ của Bồ-tát là sự giáo hóa. Lòng Từ của Phật thì rốt ráo, rộng lớn. Chán ghét sinh tử là lòng Từ của Thanh văn; tinh tấn tăng trưởng là lòng Từ của Bồ-tát; siêu vượt các hành là lòng Từ của Phật.

Thiện nam! Chư Phật Thế Tôn luôn Từ bi đối với chúng sinh. Vì một chúng sinh Phật vào thế gian một kiếp, ngàn vạn kiếp, không thể tính đếm kiếp số, Phật không vĩnh viễn trụ nơi Niết-bàn là để độ sinh. Thiện nam! Đó là lòng Từ bi của Phật đối với chúng sinh.

Phẩm 9: KIẾP SỐ

Phật nói:

–Thiện nam! Vô lượng vô số kiếp không thể tính đếm ở thời quá khứ có Đức Phật hiệu Chiên-đàn Hương ra đời. Cõi nước tên Hương độ, kiếp tên Thượng hương. Tuổi thọ của Phật là một ngàn hai trăm sáu mươi tám vạn sáu ngàn năm. Đệ tử Thanh văn của Phật là tám trăm sáu mươi tám vạn sáu ngàn người. Đệ tử Bồ-tát thì nhiều không thể tính được. Trên mỗi một lỗ chân lông Phật đều thoảng một mùi hương vị diệu, xông khắp tam thiên đại thiên thế giới. Cõi nước này không có mùi hôi. Ở đó cỏ cây núi rừng sông suối đều thoảng hương thơm, vì thế cõi ấy có tên là Hương độ. Chúng sinh ở đó nhờ xông hương thơm của Phật nên thân, khẩu, ý không tạo tội lỗi. Ngươì xuất gia học Phật, nghe hương này thành tựu bốn Thiền. Ở cõi này từng có một ngàn Đức Phật cùng hiệu là Chiên-đàn Hương nên kiếp số tên là Thượng hương. Sau khi làm mọi việc Phật, Đức Chiên-đàn Hương định nhập Niết-bàn. Lúc sắp diệt độ, Phật quán sát chúng sinh, xem chúng nào sẽ được giáo hóa học pháp Phật. Với mắt đạo, Phật quán biết một chúng sinh ở cõi trời Hữu tưởng vô tưởng từng trồng căn lành, sẽ hiểu pháp Phật. Chúng sinh ở đó tám vạn bốn ngàn kiếp, sau sẽ sinh vào cõi đời, không tham dục, nghe đức nơi pháp Đại thừa sẽ phát tâm vô thượng không thoái chuyển. Với lòng Từ, Đức Chiên-đàn Hương dùng phương tiện bảo các Tỳ-kheo: “Như Lai sẽ Niết-bàn.”

Sau đó, Như Lai nhập Tam-muôïi Vô yểm, thị hiện Niết-bàn. Xá-lợi của Phật được truyền bá khắp nơi. Chánh pháp của Phật trụ đời một ngàn tám trăm bốn mươi tám vạn bốn ngàn năm, cứu độ vô số chúng sinh. Thời đó không có tượng pháp. Với sức Tam-muội và thần lực, Phật ẩn thân suốt tám vạn bốn ngàn kiếp. Thiện nam! Suốt tám vạn bốn ngàn kiếp, Phật hóa độ vô số chúng sinh thì cũng ngần ấy kiếp chúng sinh kia ở cõi trời Vô tưởng. Hết tuổi thọ, vị trời ấy sinh vào một nhà trưởng giả của cõi đời. Năm đứa bé lên tám tuổi, Đức Chiên-đàn Hương xuất định, thị hiện thân Phật trong nhà ấy cho đứa bé thấy. Người trong nhà đó đều không thấy. Phật vì đứa bé giảng kinh pháp, dạy nhà là hoạn nạn, khen ngợi đạo lớn không thể nghĩ bàn. Đứa bé chí tâm nghe pháp, phát tâm Bồ-đề vô thượng, thành tựu pháp không thoái chuyển. Thấy vậy Phật thọ ký cho đứa bé. Sau bảy vạn hai ngàn a-tăng-kỳ kiếp, đứa bé sẽ thành Phật hiệu Bảo Thượng, là Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Những việc ấy người trong nhà không hề hay biết, chỉ có đứa bé biết.

Lúc ấy, một vạn hai ngàn Thiên tử nghe Phật thọ ký đều phát tâm Bồ-đề vô thượng, phát nguyện:

–Khi Đức Bảo Thượng thành Phật, chúng ta sẽ sinh vào cõi Phật.

Đức Phật Chiên-đàn Hương bảo:

–Các vị sẽ được toại nguyện. Sau khi thọ ký xong, Đức Chiên-đàn Hương vào Niết-bàn. Trời, người đều cúng dường xá-lợi.

Thiện nam! Lòng Từ bi của chư Phật rộng lớn như thế, Thanh văn, Duyên giác không thể biết được. Thiện nam! Giáo pháp của Phật sắp đoạn diệt thì chư Phật lại gia hộ, tăng trưởng công đức, hóa độ, làm cho giáo pháp càng được lưu truyền rộng rãi, không để diệt mất.

Lúc Phật giảng pháp đại Từ, có vô số chúng sinh phát tâm Bồ-đề vô thượng, vô số Bồ-tát đạt pháp nhẫn nhu thuận, vô số Bồ-tát phát tâm đại Bi, thành tựu Đà-la-ni, thành tựu nhẫn A-duy-nhan. Nghe pháp này, chúng sinh đều vui mừng, phát tâm lành, khen ngợi đức của Phật, rải hoa, trổi nhạc, cúng dường Phật.

Phẩm 10: HẠNH NGHIỆP

Phật nói:

–Thiện nam! Thế nào là hạnh nghiệp của Như Lai? Có ba mươi hai hạnh, với trí tuệ vô thượng, Phật biết xứ, phi xứ, hữu hạn, vô hạn, hữu vi, vô vi. Thế nào là xứ, phi xứ? Phi xứ: Không được cứu độ, thân làm ác, mộng nói lời ác, tâm nghĩ ác nên không bao giờ toại nguyện, không thể sinh vào cõi lành. Xứ: Được toại nguyện, thân làm lành, miệng nói lời lành, tâm nghĩ điều lành, vui vẻ an ổn, được sinh về cõi lành. Kẻ tham lam tài vật, phạm giới cấm, làm ác lại mong được sinh vào cõi trời, người; kẻ độc ác sân hận lại mong được thân đoan chánh; kẻ biếng lười lại mong đạt đạo; kẻ phóng túng, mê hoặc lại cầu nhập tịch diệt; kẻ tà chấp không chánh kiến lại mong được trí vô ngại, trí chân chánh. Tất cả việc đó không thể xảy ra. Bố thí mới mong giàu có, giữ giới mới sinh vào cõi cõi trời người, nhẫn nhục được thân đoan nghiêm, tinh tấn mới đạt đạo, thiền định mới tịch diệt, chánh trí mới đạt vô ngại, việc này là thật. Kẻ phạm giới tâm không định, người giữ giới thanh tịnh tâm luôn tịch tĩnh; kẻ điên đảo không thể đạt nhẫn nhu thuận, người chánh trí mới đạt pháp nhẫn; kẻ hồ nghi tâm không thể định, người trừ nghi tâm đạt định; người nữ không thể thành Chuyển luân vương, Đế Thích, Phạm thiên, Ma vương, Phật. Phải chuyển thân nữ mới thành các vị trên. Chuyển luân vương luôn dùng chánh pháp trị nước, thương yêu nhân dân, không tà ác, không thể có Chuyển luân vương làm điều bất thiện, tổn hại dân chúng, hung bạo, độc ác. Người cõi Uất-đơn-việt không bao giờ phạm điều ác, bị đọa địa ngục, chịu khổ. Người cõi ấy được sinh lên cõi trời, hưởng diệu lạc. Kẻ giết chúng sinh mong sống lâu, kẻ trộm cắp mong không mất của, kẻ dâm dục cầu được hóa độ, kẻ nói dối mong được biện tài, kẻ say rượu mong không loạn tâm, kẻ đâm thọc mong được hòa thuận, kẻ nói ác cầu được ngợi khen, kẻ nói lời thêu dệt mong được tiếng thơm, kẻ sân hận mong được sắc đẹp, kẻ tranh chấp cầu được an ổn, kẻ tà chấp cầu giải thoát. Tất cả việc đó không thể xảy ra. Người không giết chúng sinh được sống lâu, người thanh liêm không bị trộm, người trinh tiết không bị cưỡng dâm, trung tín không bị dối gạt, trí tuệ không say loạn, không tranh chấp, hòa nhã, không thô, thành thật không thêu dệt, nhẫn nhục, không sân hận, bố thí không tham lam, chánh kiến, không tà vạy những người như thế sẽ sống lâu, không mất của, vợ trinh thuận, hơi miệng thơm, đủ trí biện thuyết, quyến thuộc hòa thuận, được người khen ngợi, nghe tin lời mình nói, nhiều của cải, có sắc đẹp ưa nhìn, đời đời biết đạo. Những việc ấy là thật. Biết tám bậc sẽ đạt quả chứng; biết quả chứng sẽ tùy thời gian; biết dấu đạo (Dự lưu) không vào sinh tử tám lần; biết sự vãng hoàn không vào sinh tử ba lần; biết sự vãng lai (Nhất lai) không vào sinh tử hai lần; từ năm ấm đạt diệt độ; biết sự không trở lại (Bất hoàn) không vào sinh tử; biết nơi chốn sẽ nhập diệt; biết không chấp trước (A-la-hán) không còn vào các cõi; biết Hiền thánh không bỏ Phật đạo để học ngoại giáo; Hiền thánh nương tựa Phật, không quy y ngoại đạo; Bồ-tát sẽ đạt pháp nhẫn không thoái chuyển, không thể quay lại học pháp Tiểu thừa, Bồ-tát đạt pháp nhẫn nhất định sẽ thành Phật; Bồ-tát an tọa bên cây Bồ-đề không thành đạo sẽ không rời cây; Bồ-tát an tọa cội Bồ-đề nhất định thành Phật; trí Phật rộng lớn không gì trở ngại; trí Phật không bị trở ngại, không thể cho rằng trí Phật bị tổn hao, không cùng khắp. Vì trí Phật rộng lớn, thông đạt tất cả nên chúng sinh không thể thấy tâm Phật. Tâm Như Lai trên trời dưới đất không ai thấy được; trên trời dưới đất không ai thấy được tướng đỉnh đầu của Phật; biết Như Lai luôn sống trong định, biết tâm niệm của chúng sinh, tâm Phật không trở ngại, thấy biết tất cả; từ xưa đến nay Như Lai không quên, lời Phật dạy khắp mười phương, không có lỗi của lời nói, Như Lai không lậu hoặc, thân hạnh của Phật luôn thanh tịnh, hơn cả mặt trời, mặt trăng, Đế Thích, Phạm thiên. Sự thanh tịnh của hư không không gì sánh bằng, đạo tuệ của Phật cũng thế, vòi vọi không gì sánh.

Thiện nam! Việc biết về xứ, phi xứ của Như Lai không thể hạn lượng, lời Phật là không cùng, văn tự Phật giảng là chân thật.

Lúc ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Đại địa có thể phá

Hư không có thể lay

Lời của Phật nói ra

Không thể nào sai lệch.

Trượng phu có thể phục

Trong không tìm năm sắc

Lời của Phật nói ra

Không thể nào sai lệch.

Những lời dạy của Phật

Trước sau và khoảng giữa

Tất cả đều thành thật

Không ai có thể bì.

Phật giảng xứ phi xứ

Các khoảng trước giữa sau

Tất cả đều chân thật

Không bao giờ đổi khác.

Hiểu rõ tất cả cõi

Tùy thuận giảng kinh pháp

Vì thế không hư dối

Thấy rõ tâm chí tánh.

Các Đạo sĩ ngoại giáo

Không an ổn một nơi

Vì không hiểu xứ, xứ

Phật Chánh giác. Không vậy.

Phật biết xứ, phi xứ

Tùy thuận độ chúng sinh

Tiếng Phật vang khắp nơi

Tùy nơi giảng kinh pháp.

Chúng sinh đều được độ

Phật quán sát tất cả

Tùy thời mà soi xét

Nên dùng pháp gì dạy.

Đó là hạnh bậc nhất

Đạo thù thắng của Phật

Hạnh Phật không lỗi lỗi

Độ chúng sinh như vậy.

Không thể nào tính đếm

Xứ, phi xứ Phật giảng

Đó là oai lực Phật

Ngoại đạo không sánh được.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 4

Phẩm 11: BIẾT BA ĐỜI

Phật lại nói:

–Thiện nam! Như Lai biết rõ nghiệp nhân và quả báo của quá khứ, vị lai, hiện tại. Nghĩa là Như Lai biết nhân tạo ở quá khứ là lành, là ác thì quả báo ở đời sau sẽ như thế. Nhân quả ở vị lai hiện tại cũng vậy, là lành, là dữ, là ích, là tổn Như Lai đều biết rõ. Nếu hiện tại tạo nghiệp xấu mà vẫn được lợi ích thì đời sau sẽ tổn hao. Hiện tại tổn hao, đời sau nhất định tổn hao; hiện tại tạo lợi ích, đời sau đạt lợi ích, Như Lai đều biết. Quá khứ tạo nghiệp hèn kém, xấu ác, đời sau tạo nghiệp tốt Như Lai đều biết. Có người nhân hạnh ít nhưng lại được đức báo lớn; nhân hạnh thù thắng, quả đức không thể tính đếm, có người dạy pháp Thanh văn, Duyên giác, Phật Như Lai cũng đều biết. Người hiện tại chịu khổ, người hiện tại sung sướng, tạo nghiệp lành, gây nhân khổ, người làm ác, chịu não hại, hiện tạo tác, đời sau lại vui, người làm lành được vui Như Lai đều biết. Tất cả tội phước, nhân quả ba đời của chúng Như Lai đều biết rõ. Vì biết nên Phật tùy thuận thuyết giảng. Đó là hạnh thứ hai của Phật.

Khi ấy, Đức Phật nói kệ:

Như Lai hiểu nhân duyên

Biết rõ quả báo ứng

Thông suốt cả ba đời

Biết hành nghiệp chúng sinh.

Nhân lành được quả vui

Phước đức vào đời, trời

Nhân tạo nên khổ não

Tất cả đều biết rõ.

Hết thảy nghiệp thiện ác

Từ nhân tạo nên quả

Phật an trụ biết rõ

Như nhìn ngọc trong tay.

Có người tạo nhân nhỏ

Lại được quả lớn lao

To lớn hay nhỏ hẹp

Như Lai đều biết rõ.

Người dạy pháp Thanh văn

Kẻ tu đạo Duyên giác

Người hành hạnh Như Lai

An trụ biết tất cả.

Người tạo nhân khổ não

Lại được quả an vui

Tạo nhân lành lại khổ

Tất cả đều theo nghiệp.

Người luôn làm điều lành

Lại chịu quả khổ đau

Kẻ gây nhiều tội ác

Được quả báo an vui.

Từ nhân khổ báo khổ

Từ nhân vui quả vui

Tội phước đều tương hợp

Đức Phật biết tất cả.

Sự xoay chuyển ba đời

Nhân quả của chúng sinh

Với trí tuệ vô ngại

Phật biết không sai lầm.

Phẩm 12: TRÍ HIỂU CHÚNG SINH

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai biết rõ chí nguyện, sở học, hình tướng, nhân hành của tất cả chúng sinh. Thế nào là biết? Hoặc có người sống trong tham dục, giải thoát từ sân hận; người sống trong sân hận giải thoát từ tham dục; người sống trong ngu si, tham dục, giải thoát từ sân; người sống trong ngu si tham dục, giải thoát từ sân; người sống trong đức lành giải thoát từ bất thiện, người không lành lại tin đạo lành; người ít siêng năng giải thoát từ lòng tin vi diệu; người thích pháp nhỏ lại sống trong sự vi diệu, người sống trong sự vi diệu lại tin pháp nhỏ, tạo nghiệp tà vạy không thoát các cõi; người thiếu niềm tin lại thành tựu chánh nghiệp, người hướng đến chánh định được giải thoát; người tin vượt cõi Dục, người tin vượt cõi Sắc; người tin vượt ba cõi; người ít tin lại đạt sự thù diệu, người thích sự thù diệu lại đưa đến tổn hại; người sinh vào đâu, thân hình ra sao, gia nghiệp nhiều ít, lòng tin sâu cạn, Như Lai đều biết rõ, nên tùy thuận thuyết pháp, giúp chúng giải thoát. Đó là hạnh thứ ba của Phật.

Như Lai lại nói kệ:

Chúng sinh chí khác nhau

Sở thích lại không giống

Tâm tánh không nhất định

Như Lai đều biết rõ.

Phật biết rõ chí hướng

Cùng mọi sự tin thích

Sống trong tham, sân, si

Hoặc đọa trong ngu muội.

Ngu si cùng tham dục

Tạo nghiệp thiện, không thiện

Hành nghiệp nhỏ hoặc lớn

Như Lai đều biết rõ.

Nhân thấp kém, vi diệu

Chí tánh thích sâu xa

Hoặc từ nghiệp đặc thù

Siêng năng tin giải thoát.

Từ lòng tin thấp nhỏ

Lại đạt quả vi diệu

Từ hạnh đức lớn lao

Đạt quả trí thấp kém.

Tà vạy không tỏ ngộ

Không hiểu được Tam-muội

Tin thích vượt ba cõi

Phật biết rõ tất cả.

Thân hình lúc thọ sinh

Mọi việc của chúng sinh

Nhân tướng đều sai khác

Tin tưởng được giải thoát.

Chúng sinh trong ba cõi

Phật biết nên giảng pháp

Tùy thuận độ tất cả

Là hạnh của Mười Lực.

Phẩm 13: CHỦNG LOẠI CHÚNG SINH

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai biết rõ về chủng loại, thân hình của tất cả chúng sinh. Thế nào là biết? Chúng sinh đó tạo tội lỗi, chúng sinh ấy tích lũy công đức, thân tạo ác, không được gia hộ, không được cứu thoát Như Lai biết rõ. Thế Tôn lại biết: Cảnh giới, cảnh giới của mắt, sắc, thức, hiểu rõ nguồn gốc, ngọn ngành. Nghĩa là Như Lai biết bên trong bên ngoài đều rỗng lặng; tai mũi lưỡi thân ý cũng thế. Ý pháp, thức sự sinh khởi, bên trong không, bên ngoài không, trong ngoài đều rỗng lặng; cái nhân của đất, nước, gió, lửa đều rỗng lặng như hư không. Như Lai biết cõi Dục, Sắc, Vô sắc, từ tưởng niệm có cõi hữu vi, vô vi; ở cõi hữu vi, vô hành là tưởng; ở cõi vô vi, tưởng là có hành; ở cõi trần lao do khách trần mà có dục; sân hận vốn thanh tịnh, thuần khiết; hành có tướng là không thuận niệm; tướng Niết-bàn là thuận niệm. Cõi chúng sinh gửi thân là thế. Từ trong cõi đó, có sự xô đẩy, hành động, siêng năng, chí tánh, an trụ, sinh khởi. Như Lai biết rõ, nên tùy thuận thuyết pháp. Đó là hạnh thứ tư của Phật.

Như Lai nói kệ:

Sư tử chúa trong đời

Hiểu rõ tất cả cõi

Chúng sinh ở trong đó

Tạo mọi nghiệp từ thân.

Ở trong cảnh giới ấy

Rộng khắp, không hạn lượng

An trụ trí Nhất thiết

Biết rõ hết ngọn nguồn.

Tội phúc là nguyên nhân

Tạo nên mọi quần sinh

Từ nhân duyên hòa hợp

Sắc thân được sinh ra.

Ngay trong cảnh giới Phật

Tất cả được giải thoát

Tỏ biết thân sắc đó

Thế Tôn Bậc Tối Thắng.

Đối với mắt sắc ấy

Và tất cả các pháp

Phật biết là rỗng lặng

Vốn tịnh không sầu lo.

Tai mũi cũng như vậy

Lưỡi và cảnh giới thân

Ý pháp các chủng loại

Phật biết là rỗng lặng.

Với đất nước lửa gió

Tất cả đều bình đẳng

Sư tử chúa trong đời

Biết chẳng khác hư không.

Cõi Dục đã như vậy

Cõi Sắc và Vô sắc

Phật biết các cõi đó

Hình thành từ tư tưởng.

Thế Tôn biết khách trần

Tạo nên các dục vọng

An trụ hiểu sâu luận

Cũng vốn là thanh tịnh.

Như Lai phân biệt biết

Các hành và vô hành

Kể cả pháp Niết-bàn

Không hề có ba tưởng.

Các tướng trong cảnh giới

Sinh khởi từ vô minh

Tất cả các nguyên nhân

Hợp tan như ảo thuật.

Một đời bao nhiêu thân

Vô số các hình sắc

Như Lai tự tỏ biết

Không do vọng niệm sinh.

Chẳng khác nào hư không

Mười phương không biên vực

Sư tử chúa trong đời

Tỏ biết các cảnh giới.

Trí tuệ Phật thù thắng

Cùng tột không trở ngại

Trời người không thể sánh

Không một ai hiểu được.

Đó là hạnh thứ tư

Thế Tôn trừ cấu uế

Hiểu rõ các cảnh giới

Chỉ dạy các chúng sinh.

Dùng giới khai ngộ tâm

Các nghiệp tạo tội phước

Không khởi tâm sân hận

Biết tất cả sai khác.

Phẩm 14: CĂN BẢN

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai biết rõ căn tánh của chúng sinh. Thế nào là biết? Như Lai biết chúng sinh nào có căn tánh nhu thuận, thông lợi, thấp kém, vừa, cao thượng. Các căn ấy nương tư tưởng khởi vọng tình, từ sân hận khởi ngu si. Như Lai biết rõ tưởng khởi vọng tình, từ sân hận khởi ngu si. Như Lai biết rõ tưởng niệm của căn đó thuộc loại nào, biết từ cấu nhiễm khởi dâm, nộ, si. Từ dâm, nộ, si tạo nên nghiệp, từ các nghiệp ác tạo nên căn tánh, từ vô minh tạo nên căn, từ vọng niệm tạo nên căn. Như Lai biết rõ các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nam, nữ, mạng, vui, khổ, mừng, sợ, quán sát, tiến, thoái, ý, định, tuệ, không khác. Như Lai lại biết nguyên nhân tạo nên các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, Như Lai lại biết từ tai có căn mũi, từ mũi có căn lưỡi, từ lưỡi có căn thân, từ thân có căn mắt. Thế Tôn hiểu chúng sinh nhờ bố thí nên dần tiến giữ giới, tùy các sự tăng giảm, tiến thoái mà dạy các việc bố thí; có chúng sinh nhờ giới mà hành hạnh bố thí, Như Lai tùy thuận dạy các giới; có chúng sinh nhờ nhẫn nhục mà hành hạnh tinh tấn, Phật tùy thuận giảng hạnh nhẫn nhục, có chúng sinh từ tinh tấn hành hạnh nhẫn nhục, Phật tùy thuận giảng rõ hạnh tinh tấn; có chúng sinh từ định tu trí tuệ, Như Lai giảng rõ về thiền; có chúng sinh từ trí tuệ tu định, Như Lai tùy thuận giảng rõ Trí tuệ, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, giúp cho chúng tùy căn hiểu tu; có chúng sinh từ căn Thanh văn học pháp Duyên giác, Như Lai giảng pháp Thanh văn; có chúng sinh từ căn Duyên giác học pháp Thanh văn, Như Lai tùy thuận giảng pháp Duyên giác; có chúng sinh từ căn Đại thừa học pháp Thanh văn, Duyên giác, Như Lai tùy thuận giảng pháp Đại thừa; có chúng sinh từ các căn khác nhau học hạnh Đại thừa, Như Lai đều tùy thuận diễn giảng; có chúng sinh không có căn tu hành, không thể giảng pháp cho chúng, Phật tùy thuận khuyên chúng giác quán; có chúng sinh tu học, có thể nghe pháp Như Lai tùy thuận giảng pháp.

Thiện nam! Như Lai biết rõ tất cả sở thích, ý niệm từng căn tánh của chúng sinh nên tùy thuận giáo hóa. Đó là hạnh thứ năm của Phật.

Đức Phật nói kệ:

Biết tất cả các căn

Chí tánh của chúng sinh

Căn đó thuộc loại nào

Như Lai hiểu rất rõ.

Căn thuộc thượng, trung, hạ

Thế Tôn biết tất cả

Trí Phật không ai sánh

Phật hiểu từng sở thích.

Biết dục, ái, khách trần

Căn thấp kém, mỏng manh

Tánh tâm luôn thô bạo

Tất cả các căn ấy.

Phật biết nhân gây ra

Hiểu rõ cả ngọn nguồn

Với kẻ không làm lành

Cần độ thoát ra sao.

Từ mắt, ý, nam nữ

Cũng lại rõ nhãn căn

Khổ, vui, cùng mừng thích

Từ đâu đến sầu não.

Việc tu quán đạo nghĩa

Tinh tấn, ý, tuệ, định

Cũng biết sự việc khác

Ngọn nguồn của căn tánh.

Mắt làm nhân cho tai

Tai tạo nên mũi lưỡi

Thân là chỗ nương tựa

Của mắt tai các căn.

Từ bố thí tu giới

Phật giảng hạnh bố thí

Nhờ giới học bố thí

Như Lai dạy các giới.

Tinh tấn nhờ căn nhẫn

Thế Tôn giảng hạnh nhẫn

Nhẫn nhục từ tinh tấn

Phật dạy việc tinh tấn.

Từ trí căn đạt thiền

Vì người nêu Trí tuệ

Từ tinh tấn đạt nhẫn

Vì người nói Tinh tấn.

Từ thiền căn đạt tuệ

Vì người giảng Thiền tư

Từ tuệ căn đạt thiền

Vì người nêu Thánh trí.

Từ căn tánh Thanh văn

Tiến tu pháp Duyên giác

Phật giảng pháp Thanh văn

Không nêu nghĩa Duyên giác.

Từ căn tánh Duyên giác

Học hạnh của Thanh văn

Phật bỏ qua Thanh văn

Chỉ dạy pháp Duyên giác.

Căn tánh thuộc bậc thượng

Lại thích học pháp thấp

Phật giảng Ba-la-mật

Phân biệt bỏ pháp thấp.

Căn chúng sinh các cõi

Phật phân biệt biết rõ

Để thuần thục các căn

Mười lực khéo giảng dạy.

Biết từ nhân duyên gì

Chúng sinh nào thích hợp

Phật hiểu rõ sở thích

Chỗ hợp của báo ứng.

Từ nẻo tận các căn

Tùy thuận giảng các pháp

Với trí tuệ sáng soi

Thế Tôn phân biệt biết.

Phẩm 15: THẦN TÚC

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai tỏ biết và đi lại khắp các cõi. Nghĩa là biết chúng sinh nhất định được độ thoát trong cảnh giới chân thật. Như Lai biết chúng sinh ở cõi đó tạo nghiệp tà vạy nhất định chịu quả báo tà vạy. Chúng sinh đều từ nhân nơi tiền kiếp mà chịu báo ứng. Với chúng sinh có căn tánh thông lợi, sẽ được giáo hóa, Như Lai diễn giảng kinh pháp. Với chúng sinh có thể là pháp khí, Phật quán biết, nên tùy thuận thuyết giảng. Với chúng sinh không thể nghe hiểu các pháp, Như Lai dùng giới để giáo huấn. Nêu dạy giới cấm mà chúng vẫn không giải thoát, không được cứu độ, Như Lai sẽ dẫn dụ đưa về pháp vô bản. Như Lai tùy thuận từng căn bệnh để cho thuốc. Chúng sinh nào nhờ nghe pháp Phật, thuận tu được giải thoát, chư Phật liền xuất hiện ở đời. Chúng sinh chìm đắm trong nghiệp ác không thể nghe pháp, Như Lai bảo hộ chúng, sau sẽ giảng kinh pháp, vì thế, Bồ-tát luôn phát nguyện độ sinh. Như Lai ra đời vì độ ba việc tham dục: vì kẻ tham dục Như Lai ra đời; vì để giúp kẻ bị trói buộc trong tham dục được xuất gia, Như Lai ra đời; vì độ kẻ do nhân tham dục từ kiếp trước mà khổ đau, Như Lai ra đời. Như Lai ra đời độ ba thứ sân: Trói buộc trong sân hận; không trọn nguyện ước; ấm, cái từ đời trước ràng buộc. Độ ba si: Kẻ ngu si làm việc vô minh, kẻ chấp thân, kẻ chìm đắm. Với căn tánh sáng suốt, Như Lai dùng hạnh khổ để giúp đạt thần thông. Với chúng sinh yếu kém, Như Lai dùng hạnh an ổn để giúp chóng đạt thần thông. Với kẻ thông tuệ, Như Lai gia hộ bằng hạnh siêng khổ để giúp đạt thần thông; với kẻ yếu kém Như Lai gia hộ, điều phục giúp chúng hiểu thần thông; với kẻ không tin đạo, Như Lai luôn gia hộ để chúng thành tựu thần thông; với kẻ ngang ngược, hạnh thô bạo, Như Lai giáo hóa giúp chúng sớm đạt thần thông, không còn ngu muội, luôn vui vẻ; Như Lai biết có người nhờ sức của đạo mà đạt trọn vẹn thần thông, có người nhờ tu tập mà được đầy đủ, có người nhờ sức đạo và sức tu tập mà được đầy đủ; có người nhờ tánh hòa nhã nhưng hạnh không hợp, tánh không hòa hợp; người hạnh hòa hợp tánh lại hòa hợp; có người thân thanh tịnh nhưng tâm, khẩu không thanh tịnh, người khẩu thanh tịnh nhưng thân tâm không thanh tịnh; người thanh tịnh cả thân khẩu tâm; người thân khẩu tâm đều không thanh tịnh. Như Lai biết rõ tất cả hành nhân, quả báo của chúng sinh, nhưng trí Phật không hao tổn. Đó là hạnh thứ sáu của Phật.

Đức Phật nói kệ:

Tất cả hạnh chúng sinh

Như Lai đều biết rõ

Thông đạt các chủng loại

Phân biệt cõi chúng sinh.

Kẻ không có trí tuệ

Tạo tác nghiệp hư dối

Không thể nào nghe pháp

Sống trong nghiệp tà vạy.

Hành nghiệp của tham dục

Phân biệt có ba nhân

Sân hận cũng có ba

Ngu si lại giống vậy.

Trong cảnh giới trần dục

Đủ vô số chủng loại

Thế Tôn đều biết rõ

Nhân duyên và báo ứng.

Người siêng năng cần khổ

Tâm ý thông đạt cả

Kẻ căn tánh thấp kém

Tạo nhân và chịu quả.

Người căn tánh thông lợi

Luôn được sống an ổn

Như Lai luôn gia hộ

Bình đẳng không phân biệt.

Người nhu thuận hòa nhã

An trụ trong tịch tĩnh

Nhờ nhân duyên như vậy

Sớm đạt được thần thông.

Nẻo hành mau thành tựu

An ổn sống vui vẻ

Tu tập các hạnh lành

Tích lũy mọi công đức.

Hoặc không cần hành đạo

Nhưng lại đạt tuệ đạo

Hoặc nhờ tu hành đạo

Nên thành tựu đạo tuệ.

Hoặc có từ hành đạo

Nên đạt mọi thành tựu

Như Lai biết cả hai

Đều từ hạnh đặc thù.

Có người tu tập hạnh

Chí tánh lại điều hòa

Người chí tánh hòa thuận

Hạnh đức lại không tu.

Người căn tánh thông lợi

Thanh tịnh cả hai hạnh

Phật thấy biết tất cả

Không gì không thông đạt.

Có người tạo tác nghiệp

Thân tu hạnh thanh tịnh

Nhưng tâm và khẩu nghiệp

Lại không thể thanh tịnh.

Có người tự giữ mình

Thanh tịnh thân và khẩu

Riêng việc làm của tâm

Lại không thể thanh tịnh.

Có người ở trong đời

Thanh tịnh thân, khẩu, ý

Hạnh nghiệp của chúng sinh

Như Lai biết rất rõ.

Có chúng sinh thành tựu

Cũng có kẻ không thành

Đó là hạnh thứ sáu

Của Như Lai Thế Tôn.

Phẩm 16: NHẤT TÂM ĐỊNH Ý

Phật nói:

–Như Lai Chí Chân biết rõ từ Tam-muội thiền định thoát khỏi mọi sân hận nơi phiền não. Nghĩa là chúng sinh ràng buộc trong dục trần, Như Lai biết rõ phương pháp đạt thanh tịnh. Như Lai biết vì quên niệm nên có duyên báo, từ vô minh tạo nên dục trần. Do vô minh có hành, hành tạo thức, thức tạo danh sắc, danh sắc tạo lục nhập, lục nhập tạo nên xúc, xúc tạo thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh tạo nên già bệnh chết, ưu sầu khổ não. Như Lai biết rõ hai báo ứng và mười hai việc giúp chúng sinh thanh tịnh. Hai báo: Nghe pháp nhu thuận từ người; tự mình niệm pháp. Lại có hai: Tâm chuyên nhất không tán loạn; hiểu phương tiện tịch tĩnh, quán sát căn nguyên. Lại có hai: Biết không có nhân ban đầu, biết không có sự đến đi. Lại có hai: Quán không nơi sinh, bình an thân trước sự diệt mất. Lại có hai: Thành tựu tất cả; chứng đạt bằng trí tuệ. Lại có hai: Tu tập đạo pháp, thuận pháp giải thoát; biết vốn thanh tịnh. Lại có hai: Đạt tuệ diệt tận nhưng không chấp trước, đạt tuệ vô sinh không ỷ lại. Lại có hai: Thành tựu tín đức; thành tựu chân thật. Đó là hai pháp đưa đến thanh tịnh mà Như Lai nhận biết. Song dục trần có nhiều nên phương pháp làm thanh tịnh dục trần cũng phải nhiều. Vả lại, từ dục trần đến thanh tịnh cần có nhân quán sát. Với phương tiện tùy thuận dục trần, tạo nên nhân gần pháp, thâu phục kẻ kiêu mạn. Trí tuệ của Như Lai tịch tĩnh, an nhiên trước dục vọng và các pháp ác. Như Lai luôn thanh tịnh, hành thiền thứ nhất, an trụ trong cảnh giới tịch diệt. Sau khi xuất thiền thứ nhất, tu tám môn giải thoát, quán thuận nghịch về Tam-muội, thấy biết bằng Tam-muội, hiển thị bình đẳng. Tam-muội của các Như Lai không lo sợ, không ai hại được, không nhân duyên, không vướng nơi phương tiện. Như Lai luôn sống trong định, là Bậc tối tôn về định, an trụ một định biết tất cả định, tâm không thoái chuyển, không tăng giảm, mọi việc làm đều từ định. Tam-muội của Phật không do cái khác sinh, không thể quán sát, Thanh văn, Duyên giác không thể biết, vượt cả Bồ-tát, không ai hơn, là thâm diệu, chúng sinh không thể biết. Trí tuệ của Như Lai tịch nhiên, không biên giới, không cùng tận, không thể ví dụ. Như Lai dùng phương tiện quyền biến, giáo hóa Thanh văn, giúp họ đạt định. Như Lai hiểu rõ hạnh của Duyên giác, Bồ-tát, tùy thời cơ hóa độ. Đó là hạnh thứ bảy của Như Lai.

Đức Phật nói kệ:

Chúng sinh từ nhân duyên

Trần lao và ái dục

Như Lai biết tất cả

Trí Phật không bờ bến.

Chúng sinh tạo nghiệp tịnh

Hay tạo nghiệp không tịnh

Thế Tôn, Đại trí tuệ

Hiểu tất cả không sai.

Từ nhân duyên tạo nghiệp

Cũng từ đó khởi trí

Vô minh là nhân duyên

Có các hành tạo tác.

Thức, danh sắc cứ thế

Tạo duyên cho sáu nhập

Thế Tôn biết rất rõ

Sự lưu chuyển nhân duyên.

Các dục vọng phiền não

Đều do tham mà có

Thông đạt về nhân duyên

Sự sinh khởi của dục.

Tư tưởng luôn ràng buộc

Cứ thế nhân duyên thành

Tất cả các chúng sinh

Đều thuộc vòng duyên khởi.

Chúng sinh muốn thanh tịnh

Cần có hai nhân duyên

Nghe pháp từ người khác

Quán sát nhờ lời dạy.

Hoặc riêng mình tự niệm

Quán các pháp rỗng lặng

Người này sẽ giải thoát

Khỏi biển khổ sinh tử.

Tịch tĩnh mà quán sát

Siêng năng trừ hai pháp

Tư duy, suy xét kỹ

Các pháp không đến đi.

Tĩnh tâm xét nguồn gốc

Không sinh cũng không diệt

Tịch tĩnh vào đạo pháp

Là đạt được thanh tịnh.

An trụ trong chánh hạnh

Bậc trí tu ba pháp

Người không tự buông thả

Tin ba môn giải thoát.

Thành tựu trí diệt tận

Chí thành đạt vô sinh

Đó là các nguyên nhân

Thanh tịnh, đạt chí nguyện.

Thế Tôn chuyên tâm biết

Luôn an trụ Tam-muội

Thành tựu pháp tịch tĩnh

Dũng mãnh làm mọi việc.

Quán sát và suy xét

Từ thuận đến hành nghịch

Phật là vua các pháp

Thành tựu tám giải thoát.

Chỉ từ một Tam-muội

Biết vô số chánh định

Bậc tối tôn biết rõ

Hạnh Phật luôn bình đẳng.

Từ Tam-muội khởi hạnh

Pháp Phật không cùng tận

Do từ nơi hành ấy

Tâm thắng không chỗ định.

Hoặc Thanh văn, Duyên giác,

Chánh định cũng như vậy

Và định của Bồ-tát

Cũng từng ấy chủng loại.

Định Phật được an trụ

Đều siêu vượt tất cả

Như Lai dùng trí sáng

Tùy thời giáo hóa chúng.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 5

Phẩm 17: BIẾT BẢN HẠNH CỦA CHÚNG SINH

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai biết rõ về hành nghiệp trong một đời, mười đời, trăm ngàn vạn đời, vô số đời không thể tính biết của tất cả chúng sinh. Như Lai biết chúng sinh sinh vào cõi nào, tên họ là gì, ăn uống ngủ nghỉ, hình sắc, tuổi thọ ra sao, nghiệp thiện ác, quả khổ, vui, chết ở đâu, sinh ở đâu, ngôn ngữ, học vấn Như Lai biết rõ về ngọn nguồn, nên luôn tùy thuận căn tánh, thời cơ để thuyết giảng. Như Lai biết rõ từ nhân gì đưa đến quả như vậy. Với một chúng sinh Như Lai biết rõ về hành nghiệp nhân quả, với tất cả chúng sinh mười phương, Như Lai cũng biết tất cả. Như Lai không chỉ biết về quá khứ mà còn biết về vị lai. Tâm hành của chúng sinh là không thể tính đếm, nên trí Phật cũng không thể nghĩ bàn. Như Lai biết chúng sinh luôn lo sợ, lưu chuyển trong sinh tử, biết việc tu đức của chúng, biết chúng sinh nào hợp với pháp Thanh văn, Duyên giác, chúng sinh nào hợp với trí Phật. Nhờ biết rõ căn hành của chúng nên Phật tùy thuận giảng pháp khiến chúng đạt tâm không thoái chuyển, tùy căn tánh nên khiến tất cả đều tin thích. Đó là hạnh thứ tám của Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Trải vô số kiếp

Không thể tính đếm

Đuốc sáng trong đời

Soi tỏ tất cả.

Phật biết về mình

Lại biết chúng sinh

Quán sát rõ ràng

Như châu trong tay.

Tên gọi dòng họ

Sắc tướng tuổi thọ

Chết ở cõi này

Sinh vào cõi khác.

Từ nhân duyên gì

Thọ thân như thế

Như Lai bình đẳng

Diễn giảng kinh pháp.

Vô số vô lượng

Kiếp trong quá khứ

Tâm tánh chúng sinh

Các pháp tưởng niệm.

Nhân duyên tạo nên

Với thệ nguyện xưa

Và trí tối thắng

Phật biết tất cả.

Hạnh nghiệp của người

Từ trong quá khứ

Cho đến vị lai

An trụ tất cả.

Vô số vô lượng

Kiếp số trải qua

Khen ngợi giảng thuyết

Không thể cùng tột.

Vô số đời sau

Cội nguồn quá khứ

Nêu bày hết thảy

Hành nghiệp đã làm.

Không thể so đếm

Trí không cùng tận

Thế Tôn là vậy

Trí Phật như biển.

Nếu có chúng sinh

Tạo đức cầu Phật

Ở đời quá khứ

Cung phụng Thế Tôn.

Trụ Thần túc Phật

Mười Lực, Vô úy

Biết rõ việc đó

Đời trước đã tạo.

Thế Tôn đều tỏ

Chúng sinh nghĩ gì

Như nơi gốc xưa

Chỗ trồng các đức.

Như Lai biết rõ

Chỉ dạy ba thừa

Đạt không thoái chuyển

Giải thoát thanh tịnh.

Phật phân biệt biết

Hạnh lành quá khứ

Tất cả chúng sinh

Không thể nghĩ bàn.

Đó là Đại thánh

Hành nghiệp thứ tám

Giáo hóa chúng sinh

Thành tựu vô tận.

Phẩm 18: THẤU TỎ

Phật nói:

–Thiện nam! Với Thiên nhãn thanh tịnh siêu việt, Như Lai Chí Chân biết rõ việc sống, chết, sạch, nhơ, thiện, ác, tội, phúc, tốt, xấu, khổ, vui, nhân, quả của tất cả chúng sinh. Phật biết chúng sinh thân làm ác, miệng nói ác, tâm nghĩ ác, hủy báng Hiền thánh, chấp tà, tạo nghiệp bằng trí sai lệch, sau khi chết bị đọa vào cõi ác, chịu khổ nơi địa ngục. Có chúng sinh thân làm lành, miệng nói lời lành, tâm nghĩ điều lành, không hủy báng Hiền thánh, sống trong chánh kiến, làm mọi việc bằng trí sáng, sau khi chết sinh vào cõi lành, thọ hưởng diệu lạc. Với Thiên nhãn Như Lai biết cõi Phật như hư không không biên giới, biết pháp giới không thể nắm bắt, không chấp trước, không thể nói năng. Từ hiện tại của chúng sinh, Phật biết rõ quả báo sau khi chết. Phật biết sự thành hoại hợp tan của tất cả. Phật biết các Bồ-tát bỏ thân này lại thọ thân khác, tiếp tục xuất gia, an tọa nơi cội Bồ-đề, thành Chánh giác, thuyết giảng kinh pháp, nhập Niết-bàn. Phật biết Thanh văn đạt giải thoát liền diệt độ, Duyên giác đạt pháp, Phật hiện thần thông gia hộ để độ sinh. Phật thấy tất cả mà mà Tiên nhân đạt năm thông, ngoại đạo dị giáo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều không thể thấy. Như Lai thấy tất cả những gì mà chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới không thể thấy biết. Cõi chúng sinh là vô lượng nên Thiên nhãn Phật là không thể nghĩ bàn. Như Lai thấy rõ cõi Phật, cõi chúng sinh nên luôn tùy thuận giáo hóa. Chúng sinh nào có thể giữ giới Phật tùy thuận dạy giới, nhưng chúng sinh khác không hay biết. Đó là hạnh thứ chín của Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thiên nhãn của Như Lai

Thanh tịnh không cấu uế

Tu tập vô số kiếp

Đủ công đức thần thông.

Nhìn thấy khắp mười phương

Cõi Phật và chúng sinh

Tất cả pháp có không

Cùng mọi việc suy thịnh.

Chúng sinh ở các cõi

Có sắc hay không sắc

Sinh về cõi thiện ác

Thuộc Bậc thượng trung hạ.

Chết rồi lại thọ sinh

Làm ác chịu khổ não

Tích đức được an vui

Như Lai đều biết cả.

Vô số các Bồ-tát

Ở cõi Phật mười phương

Đi lại tạo hạnh nghiệp

Thọ sinh lại xuất gia.

An tọa cội Bồ-đề

Hàng phục hết quân ma

Với Thiên nhãn thanh tịnh

Phật thấy biết tất cả.

Thành Phật, là vua pháp

Thành tựu tối chánh giác

Xoay chuyển bánh xe pháp

Độ hết thảy trời người.

Làm mọi việc Phật làm

Lại xả bỏ tuổi thọ

Thị hiện nhập Niết-bàn

Như Lai biết tất cả.

Người nghe pháp Phật giảng

Tư duy và tu hành

Làm mọi hạnh thanh tịnh

Không phiền não sầu lo.

Lắng nghe kinh pháp Phật

Không tham đắm sinh tử

Đã vượt đến bờ giác

Như Lai biết rất rõ.

Ngoại đạo và Thanh văn

Duyên giác, các Bồ-tát

Dù là đạt Thiên nhãn

Vẫn không thể thấy hết.

Thiên nhãn của Như Lai

Thanh tịnh không ô uế

Thấy tất cả chúng sinh

Thần thông thân vi diệu.

Thị hiện rất rõ ràng

Chúng sinh thân vi tế

Đầy đủ ba ngàn cõi

Với đủ loại hình sắc.

Bao nhiêu lần sống chết

Cõi chúng sinh như thế

Vọng tưởng của trời người

Như Lai hiện pháp Phật.

Tùy thuận để giáo hóa

Chúng sinh nào thông đạt

Như Lai hiện thân Phật

Thuyết giảng các pháp Phật.

Người khác dù ở bên

Vẫn không thể thấy được

Đó là sức Thiên nhãn

Hành nghiệp của Như Lai.

Phẩm 19: CHẤM DỨT LẬU HOẶC

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân trừ hết lậu hoặc; với tâm vô lậu, Phật tu giải thoát; với Trí tuệ ba-la-mật, Phật chứng đắc thần thông, làm mọi việc, đoạn sinh tử, hành hạnh thanh tịnh, mọi việc đã làm xong, biết nguồn gốc của danh sắc; với trí tuệ vô lậu, thanh tịnh không ô uế, thuần khiết hiển hiện, Như Lai vượt mọi chướng ngại.

Thanh văn tuy hết lậu hoặc nhưng còn hạn hẹp, chưa đạt cứu cánh; Duyên giác tuy hết lậu hoặc nhưng còn trở ngại trong hạnh Từ bi, không đủ biện tài. Như Lai hết lậu hoặc, đủ các hạnh, vượt mọi trở ngại, trọn tâm Từ bi, đầy đủ biện tài, dũng mãnh không sợ, thần thông khôn lường, không ai biết được, không thể so sánh, bình đẳng chuyên nhất. Như Lai Chí Chân không bị nghiệp tội gây trở ngại, đầy đủ mọi oai nghi đức hạnh, thanh tịnh như hư không, tất cả quân ma ngoại đạo không thể sánh nổi, trọn vẹn công đức, danh xưng. Như Lai không lậu hoặc, dục trần không trở ngại được nhưng Phật hòa hợp tất cả. Với trí vô lậu kiên cố, Như Lai giảng pháp vô lậu để trừ hết hoặc lậu của chúng sinh. Chúng sinh không trí tuệ, tạo nên lậu hoặc thọ thân ấm, nhập. Các thiện nam! Hãy suy xét Như Lai dùng phương tiện chỉ dạy, thị hiện thuyết giảng, trừ hết dục trần, giúp chúng biết rõ, thọ trì pháp Phật. Thiện nam! Đó là hạnh thứ mười của Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai Thế Tôn

Đủ trí vô lậu

Thông tỏ tất cả

Thanh tịnh vô lượng.

Trọn vẹn mười Lực

Siệu vượt, thù thắng

Lãnh thọ pháp Phật

Dốc tín tuân hành.

Đạt trí vô lậu

Đó là Thanh văn

Nhưng chưa hết chấp

Còn bị trở ngại.

Thế Tôn trong đời

Đạo Sư mọi cõi

Trừ hết chấp xứ

Không còn trở ngại.

Các hàng Bồ-tát

Cũng đạt lậu tận

Nhưng không lòng Từ

Và thiếu biện tài.

Chư Phật Thế Tôn

Chấm dứt lậu hoặc

Nhưng đủ Từ bi

Biện tài không lường.

Thế Tôn thanh tịnh

Trụ trí vô lậu

Biết rõ chúng sinh

Bị các lậu hoặc.

Tham đắm tất cả

Nhưng các chúng sinh

Không thể biết được

Quả báo phải chịu.

Như Lai Thế Tôn

Thương xót chúng sinh

Giảng pháp vô thường

Khổ, không, vô ngã.

Tất cả các pháp

Vốn không thật có

Hiểu được như thế

Thành tựu quả Phật.

Không thấy ta người

Nào đâu thọ mạng

Được gọi là người

Cũng chỉ như thế.

Tất cả chúng sinh

Chấp chặt vào đó

Như Lai thương xót

Giảng pháp giải thoát.

Đức Phật an trụ

Không hề mệt mỏi

Nhưng trí của Phật

Không có thêm bớt.

Vì thế Như Lai

Luôn hành Từ bi

Thương xót tất cả

Thuyết giảng kinh pháp.

Hạnh Phật là thế

Không ai sánh bằng

Rộng khắp mười phương

Hàng phục ngoại đạo.

An trụ mười Lực

Mạnh mẽ kiên cường

Xoay chuyển xe pháp

Thù thắng khó lường.

Phẩm 20: BỐN VÔ ÚY

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân đầy đủ bốn pháp Vô úy, làm mọi việc. Như Lai chánh giác tự biết tất cả. Trời, Người, Sa-môn, Phạm chí, Ma vương, Đế thích, Phạm thiên không thể gây trở ngại nơi pháp của Như Lai, không hiểu lời của Như Lai, không thể thành Phật. Vì sao Như Lai được tôn là Đẳng Chánh Giác? Vì hiểu tất cả các pháp bình đẳng không thiên lệch; pháp phàm phu và pháp Phật bình đẳng; pháp Hữu học, pháp Vô học, pháp Duyên giác, pháp Bồ-tát, pháp Phật đều bình đẳng; pháp thế gian, pháp xuất thế gian, có tội không tội, có lậu hoặc, không lậu hoặc, hữu vi, vô vi, có số, không số đều bình đẳng. Vì sao bình đẳng? Vì tất cả đều rỗng lặng, không tướng, không nguyện, vì ba cõi tự nhiên; không hành vì hành tự nhiên; do không khởi vì dấy khởi tự nhiên. Do không nương tựa vì chỗ nương tựa tự nhiên. Như có thể suy xét ba đời tự nhiên; trí tuệ bình đẳng, vì vô minh ân ái tự nhiên; Niết-bàn bình đẳng vì sinh tử tự nhiên.

Thiện nam! Như Lai hiểu sự bình đẳng của các pháp nên thành Chánh giác và nhờ thế Như Lai có đủ phương tiện Từ bi, tùy thuận chúng sinh thuyết giảng kinh pháp, giúp chúng sinh nương tựa pháp, diệt trừ nguồn gốc khổ não. Có những kẻ không phải là Đạo sư tự cho là Đạo sư, không phải là tối tôn tự xưng là tối tôn, chưa thành Chánh giác tự cho là Chánh giác. Như Lai đối với các trường hợp ấy hiện bày tính vô sở úy. Như Lai siêu vượt, không ai sánh được. Đó là hạnh thứ mười một của Phật.

Đức Phật lại nói kệ:

Biết các pháp bình đẳng

Thành tựu trí Chánh giác

Với trí giác bình đẳng

Như Lai thấy các pháp.

Phàm phu và chư Phật

Bình đẳng không sai khác

Pháp Hữu học, Vô học

Pháp của các Duyên giác.

Tất cả pháp thế gian

Và các pháp xuất thế

Pháp lành cùng pháp ác

Niết-bàn hay sinh tử.

Rỗng lặng, không hình tướng

Nào đâu có nguyện thệ

Không sinh, không tạo tác

Như Lai thấy tất cả.

Hiểu các nghiệp như vậy

Giảng dạy cũng như thế

Nhờ thế độ chúng sinh

Đó là pháp của Phật.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai tự biết đã trừ hết các lậu hoặc, trời người không ai có thể hủy báng Phật, không ai dám nói là Phật chưa đoạn hết lậu hoặc. Như Lai đoạn hết lậu hoặc nghĩa là Như Lai thoát khỏi nguồn ái dục, không còn bị trở ngại trong dục, trừ tất cả hạnh trần dục, được tôn là Như Lai Chí Chân. Vì trừ hết lậu hoặc nên Như Lai vào đời bằng trí tuệ đệ nhất, không ai có thể ngăn ngại pháp Phật. Như Lai giúp chúng sinh diệt trừ nhiễm trần, tu tập chứng đạo, không gì là không diệt, không để sinh khởi là “tận”. Sự đoạn tận của Như Lai là chân đế không cùng tận, là vô vi, không thọ, hiện khắp, không nơi chốn, tạo lập, Như Lai an trụ không sinh, các pháp trụ trong pháp giới, là tùy thuận, không diệt độ, không thành, không đắc, không trừ. Như Lai Từ bi, tìm đủ mọi phương tiện, vì chúng sinh giảng thuyết kinh pháp, trừ lậu hoặc. Đó là hạnh mười hai của Phật.

Lúc ấy, Đức Phật nói kệ:

Như Lai diệt hết mọi lậu hoặc

Không còn chướng ngại do tham dục

Thế Tôn vượt thoát dòng sinh tử

Đoạn trừ tất cả mọi cấu uế.

Như Lai an trụ trừ vô minh

Không còn chấp thấy sự ngu tối

Sư tử trong đời không chấp kiến

Nên không trở ngại, không dục trần.

Như Lai tùy thời giảng kinh pháp

Trừ hết lậu hoặc không sinh tử

Quán biết các pháp không sở hữu

Làm sao trừ diệt hay nuôi lớn.

Những gì đoạn tận không ai sánh

Cái đã đoạn tận chỉ giả danh

Pháp đã đoạn tận: Hai hữu vi

Tất cả đều không có ba tướng.

Vào cõi thế gian không chấp chặt

Với trí tuệ sáng Phật giải thoát

Tùy thuận thời cơ để thuyết giảng

Hạnh thứ mười hai của Thế Tôn.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai hiểu rõ về dục trần chướng ngại nên không còn bị trở ngại. Trời, người không ai có thể chê trách Như Lai là không tùy pháp. Thế nào là thoái chuyển? Có một pháp làm cho thoái chuyển: Chê trách Như Lai không chuyên nhất. Nghĩa là tâm tán loạn, không chuyên tinh. Lại có hai: Không hổ, không thẹn. Lại có ba: Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Lại có bốn pháp: trái nghịch, sân hận, đố kị, ngu si. Lại có năm: Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, uống rượu. Lại có sáu: Không cung kính, giấu kinh điển, khinh hủy giới cấm, không tu định, không niệm pháp, kiêu mạn. Lại có bảy: Tự đại, ngã mạn, trọng mạn, chấp ngã, tà mạn, mạn mạn, tăng thượng mạn. Lại có tám: Tà kiến, tà niệm, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tư duy, tà định, tà tuệ. Lại có chín: Khinh khi những người đáng kính, kính trước mặt, tổn hại sau lưng, cung kính người không đáng kính, hại trước mặt, kính sau lưng, ghét người từng hại mình, hại trước mặt, hại sau lưng. Chính vì thế luôn khởi tâm não hại. Lại có mười pháp: Sát sinh, trộm cướp, dâm dục, nói dối, nói hai lời, nói lời ác, lời nói thêu dệt, tham, sân, si. Đó là không thuận pháp, khinh ghét người thuận pháp, luôn điên đảo, bị năm cái ấm che lấp, sống trong tà kiến, tham ái, trái với chánh pháp. Những pháp đó sẽ luôn cản trở. Như Lai trừ hết các pháp đó, tùy thuận thuyết giảng, giúp chúng sinh vượt ấm cái, giải thoát. Đó là hạnh mười ba của Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Thế Tôn hiểu rõ các pháp

Trói buộc không thể giải thoát

Chấp trước không thể xả bỏ

Lại cũng không biết hổ thẹn.

Thân, khẩu, ý cùng làm ác

Không thể nào bảo vệ được

Tham, sân, si cùng lo sợ

Sát sinh lại phạm trộm cướp.

Dâm dục, nói dối, say rượu

Đủ sáu tình bảy kiêu mạn

Sống theo tám thứ pháp tà

Trở ngại nơi đạo giải thoát.

Không tự kìm chế về mình

Lại gây tạo mười pháp ác

Không xả, không biết thuận pháp

Nên không thể đạt giải thoát.

Điên đảo lại thêm chấp trước

Ỷ lại cùng tự buông lung

Không nên làm những việc ấy

Là Bậc Thế Tôn trong đời.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai biết hạnh nguyện của Bồ-tát, sống bình đẳng, diệt hết khổ não. Chúng sinh làm lành sẽ giải thoát, sống bình đẳng sẽ diệt hoạn nạn. Trời, người không thể gây trở ngại chánh pháp của Như Lai. Dù có kẻ cho Như Lai không được Thánh chúng tôn phụng, không biết đạo lớn, Như Lai vẫn không lo sợ. Pháp đáng tôn trọng là đạo Nhất thừa tạo mọi thanh tịnh cho chúng sinh. Lại có hai pháp: Tịch tĩnh, thệ nguyện. Lại có ba pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện. Lại có bốn: Thân, thọ, tâm, pháp. Lại có năm: Tín, tấn, định, niệm, tuệ căn. Lại có sáu: Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên. Lại có bảy: Ý, pháp, tinh tấn, hoan hỷ, tín, định, hộ (xả) giác ý. Lại có tám: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định, chánh tuệ. Lại có chín: Thiền một, thiền hai, thiền ba, thiền bốn, không, thức, xứ, phi tưởng, diệt tận. Lại có mười: Trừ bỏ sát sinh, trộm cướp, dâm dục, nói dối, nói hai lời, nói ác, mắng nhiếc, thêu dệt, sân hận, tà kiến. Đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nhờ tu giới đạt định, tu định đạt tuệ, từ tuệ có giải thoát, đạt trí hiểu vượt, thành tựu sự không thọ sinh của Hiền thánh. Nghĩa là bình đẳng làm mọi việc của bậc Hiền thánh, không thấy có hai, không hai, có quyền, không quyền, có tiến, thoái, sinh không sinh, không thọ, không xả, vượt qua hạnh bình đẳng. Do các pháp không hai nên tu tập bằng tuệ. Vì thế, Như Lai không thọ sinh, tùy thuận chúng sinh giảng thuyết, chúng sinh thực hành sẽ diệt hết khổ não. Đó là hạnh mười bốn của Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Gần gũi thanh tịnh

Không thể suy lường

Mọi người nương tựa

Chứng đạt tịch tĩnh.

Như Lai nghe thấy

Biết hết tất cả

Như Lai tùy thuận

Giảng pháp cam lồ.

Thành tựu pháp lành

Và vô số pháp

Thanh tịnh trợ đạo

Chư Phật Thế Tôn.

Dũng mãnh tu tập

Chứng đạt giải thoát

Giảng thuyết kinh pháp

Không có xứ sở.

Tùy thuận là hành

Diệt hết khổ não

Các pháp phương tiện

Phong phú, không lo.

Không chấp giữ pháp

Không theo phi pháp

Bình đẳng giải thoát

Tinh tấn không ngừng.

Công đức pháp lành

Không từ đạo pháp

Cũng chẳng trống không

Hư không không niệm.

Như huyễn như hóa

Như cảnh trong mộng

Như thế sẽ vượt

Các dòng sinh tử.

Đó là Thế Tôn

Làm tất cả việc

Giúp chúng giải thoát

Bao trùm tất cả.

Như Lai Từ bi

Độ thoát hết thảy

Trí tuệ siêu vượt

Không ai sánh bằng.

Phẩm 21: MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG (1)

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân không còn lậu hoặc, không hề khiếm khuyết, thuận hành chánh pháp, biết rõ kẻ trí, ngu. Vì sao? Vì hành nghiệp của thân Phật không khiếm khuyết, Như Lai đạt chánh giác bình đẳng đủ thần thông, sắc thân đoan nghiêm, oai nghi, cử chỉ đều thuận pháp, Như Lai mặc pháp y, tay cầm bình bát, đi khắp mọi nơi, vào xóm làng thành ấp nhưng chân Phật không chạm đất. Vì bàn chân với tướng bánh xe ngàn căm của Phật bước đến đâu thì nơi ấy đều có hoa sen thơm đỡ nâng, nhờ thế, tất cả loài trùng kiến đều được an ổn dưới chân Phật, sau khi mạng chung, sinh lên cõi trời. Pháp y không chạm vào thân Phật, gió không lay động pháp y. Chúng sinh đều được an ổn khi ở bên Phật. Thiện nam! Lời của Như Lai không lỗi lầm. Người trí, kẻ ngu không thể tìm thấy lỗi. Vì sao? Vì lời Phật nói thành thật không hư dối, thuận pháp, luật, bình đẳng, đúng với hành động, không lỗi lầm, làm vui lòng mọi chúng, không trùng lặp, hợp lý, trang nghiêm. Từ một âm thanh của Phật hợp với tất cả chúng sinh, chúng sinh nghe hiểu vui vẻ. Thiện nam! Tâm Như Lai không lỗi lầm. Người trí, kẻ ngu đều không tìm được lỗi. Vì sao? Vì Như Lai luôn sống trong định. Đó là hạnh mười lăm của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai Thế Tôn

Không có lỗi lầm

Việc làm của Phật

Từ thân, khẩu, ý.

Tất cả thế gian

Không thể thấy lỗi

Như Lai Từ bi

Thương xót thị hiện.

Chúng sinh không thể

Thấy lỗi của Phật

Phật giảng kinh pháp

Giúp chúng tịch tĩnh.

Trừ bỏ tất cả

Lỗi lầm, khiếm khuyết

Hạnh thứ mười lăm

Của Phật là vậy.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân không có lời thô. Lời nói của Phật tất cả ma, quyến thuộc của ma, ngoại đạo, nhà học thuật khác không thể tìm thấy lỗi. Vì Như Lai không hề nói gì, không chấp trước. Chúng sinh thọ học lời Phật không chấp nơi có, không. Việc làm của thân Phật cùng khắp, lời nói của Phật không lỗi lầm, không tranh chấp với đời. Vì thế Như Lai không nói năng, luôn tĩnh lặng, không chấp ngã và sở hữu của ngã, không tham, vượt các cõi, không tranh chấp giúp chúng sinh trừ chấp nơi ngôn ngữ nên giảng pháp.

Đó là hạnh mười sáu của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Dù được ngợi khen

Không thấy mừng vui

Bị người hủy báng

Cũng chẳng buồn khổ.

Trừ các chấp trước

Không mong cầu gì

Tu tập hạnh lành

Nhưng không tham chấp.

Như Lai thật tu

Sống trong tĩnh lặng

Không ngã, không thọ

Không có yêu ghét.

An trụ đúng pháp

Giảng thuyết kinh pháp

Đó là hành nghiệp

Như Lai, Thế Tôn.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai sống trong định, không tán loạn, không quên, không trái pháp, đủ trí tuệ, giải thoát, biễt rõ tâm hành của chúng sinh, tùy thuận giảng thuyết, không chướng ngại, đủ biện tài. Như Lai thấy rõ ba đời, thương yêu tất cả chúng sinh, thuận hợp giảng pháp. Đó là hạnh thứ mười bảy của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai nhớ kỹ

Không quên pháp nào

Sống trong thiền định

Hành pháp giải thoát.

Biết rõ tâm hành

Tất cả chúng sinh

Tùy thuận căn tánh

Thuyết giảng chánh pháp.

Chỉ dạy rõ ràng

Không để quên sót

Thông đạt ba đời

Tùy thuận tất cả.

Vì không quên sót

Tùy thuận giảng thuyết

Đó là hành nghiệp

Của Đức Như Lai.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân luôn sống trong tịch tĩnh, đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, nghỉ… đều là định, thành tựu Tam-muội giải thoát, không bị che lấp, quán sát chúng sinh định, không định, nhưng chúng sinh không thấy được Như Lai, không hiểu thần thông Phật, Như Lai thị hiện giúp chúng thấy biết. Như Lai sống trong định, không phân biệt cao thấp, thuyết giảng cho chúng sinh nhưng không chấp. Vì sao? Vì biết tâm hành của các chúng sinh. Trí Phật vòi vọi như thế, không vin chấp như hư không, không trong ngoài, thông đạt tất cả. Đó là hạnh mười tám của Phật.

Như Lai nói kệ:

Phật không tiến thoái

Tâm luôn tịch tĩnh

Đi đứng nằm ngồi

Ngủ nghỉ ăn uống.

Nói năng im lặng

Tịch tĩnh không loạn

Như Lai luôn định

Không bị mê hoặc.

Mười phương chúng sinh

Không thể thấy lỗi

Không hề hay biết

Tâm định của Phật.

Như Lai định tịnh

Thuyết pháp cho người

Hợp thời hợp cơ

Đó là hạnh Phật.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 6

Phẩm 21: MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG (2)

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân không vọng tưởng, không bị mê hoặc, như hư không rộng lớn, không xét chúng sinh nhưng tùy thuận tất cả, hạnh Phật như pháp giới, không thể phá hoại, trí Phật bình đẳng, không phân biệt các pháp, không dục vọng, với người không hủy giới cấm, Như Lai không thiên lệch, không chê bai kẻ phạm giới, không tôn kính người tu đạo, không bỏ người không tu đạo, không chấp giáo, luật là của mình, không khinh khi kẻ sống trong tà kiến. Như Lai bình đẳng với tất cả nên không vọng tưởng, giảng thuyết giúp chúng sinh trừ bỏ phân biệt. Đó là hạnh mười chín của Phật.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Phật an trụ đạo

Không còn vọng tưởng

Thế Tôn tối thắng

Quán biết cõi Phật.

Tất cả kinh pháp

Đều không sai khác

Như Lai Thế Tôn

Hành hạnh bình đẳng.

Với người giữ giới

Hay kẻ hủy giới

Không thấy sai khác

Giáo hóa chúng sinh.

Như Lai Thế Tôn

Tâm luôn bình đẳng

Độ thoát tất cả

Trừ diệt tướng tham.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân không do dự, quán sát thấy rõ nguồn gốc, không cần tư duy. Vì sao? Như Lai thành tựu tất cả các pháp, làm việc thận trọng, tâm nhu thuận, đủ giới thanh tịnh, trí sáng tỏ, không chấp, không phân biệt. Với trí tuệ, Phật quán sát, bảo vệ, không thuận theo vô minh, vượt hết các cõi, không làm việc thế tục, Như Lai hành trì hạnh Phật, không theo thế gian, chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng, tự tại, thương yêu chúng sinh, đi khắp mười phương, không chạy theo kẻ khác, không kết bè nhóm, Như Lai an tường độ thoát tất cả, không nhầm lẫn, không lấy bỏ, trừ hai chấp, vượt bốn độc, dù phải trải qua một kiếp tư duy suy xét vẫn không thể biết hết hạnh Phật. Tất cả việc làm, không làm, niệm, không niệm, Như Lai thông đạt hết. Lòng Từ bi, trí quán sát của Phật rộng lớn như thế nên Phật bảo hộ luôn chúng sinh, thuyết giảng chánh pháp.

Đó là hạnh hai mươi của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai luôn quán, hộ

Không một niệm trễ lười

Tu tập các pháp mầu

Hạnh thù thắng siêu tuyệt.

Thân tâm Phật như thế

Giới cấm và trí tuệ

Thế Tôn Bậc Tối Thượng

Hạnh nguyện luôn chí thành.

Như Lai không chấp trước

Không tổn hại chúng sinh

Không vọng tưởng loạn niệm

Không giả trá hư dối hư.

Mọi việc Phật quán, hộ

Chân thật, không phô trương

Phật giảng thuyết kinh pháp

Cho tất cả chúng sinh.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân không còn tham dục, chỉ thích pháp lành. Nghĩa là lòng Từ bi của Phật không tổn giảm, Như Lai không tham chấp, thuyết giảng kinh điển, không sai lầm, không làm cho chúng sinh mê chấp theo tà dục, Phật khai hóa chúng sinh, không mê hoặc, không chấp trong nhàn tịnh, không bỏ dở, khuyên Bồ-tát luôn làm cho Tam bảo hưng thịnh, không đoạn tuyệt, Như Lai sống trong đạo đức, giáo hóa chúng sinh, giúp chúng đạt trí chân thật. Đó là hạnh hai mươi mốt của Phật.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai không tham dục

Vui sống trong pháp lành

Từ bi bố thí pháp

Độ thoát hết mọi loài.

Cứu vớt các chúng sinh

Tùy thời cơ khai hóa

Như Lai không tổn đạo

Không để đoạn Tam bảo.

Không tham dục, sân hận

Không ngu si giữ giới

Với trí tuệ thông đạt

Giảng thuyết các kinh pháp.

Thấy chung sinh lười biếng

Như Lai khuyên siêng năng

Làm mọi việc bằng trí

Độ tất cả quần mê.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai luôn tinh tấn. Nghĩa là Như Lai luôn quán sát, giáo hóa chúng sinh, không bỏ một ai, Như Lai giúp người nghe kinh hiểu rõ. Như Lai quán xét căn tánh của người nghe kinh, luôn giảng kinh pháp cho người đáng được nghe, giảng kinh không vì tham lợi dưỡng của chúng sinh. Như Lai đi khắp cõi Phật mười phương, giáo hóa làm cho chúng sinh phát tâm đạo; ba nghiệp của Như Lai không mệt mỏi, luôn thanh tịnh, luôn được chư Phật khen ngợi. Như Lai bình đẳng độ thoát các chúng sinh. Hạnh Phật hết mực rộng lớn không thể nói hết. Đó là hạnh hai mươi hai của Phật.

Như Lai nói kệ:

Sư tử chúa trong đời

Trọn vẹn sức tinh tấn

Do lực tinh tấn ấy

Nên luôn được tán thán.

Do uy lực ting tấn

Chưa từng có tổn giảm

Diễn giảng các kinh pháp

Cho người đáng được nghe.

Phật an trụ tinh tấn

Không ai biết được hết

Thân tâm khẩu của Phật

Không bao giờ mỏi mệt.

Phật tinh tấn bình đẳng

Mọi việc không lỗi lầm

Như Lai luôn Từ bi

Thuyết giảng cho chúng sinh.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân đủ sức nhớ rõ, không quên sót, không tổn giảm. Vì sao? Thiện nam! Từ khi thành đạo Bồ-đề vô thượng, Như Lai đã biết tất cả hành nghiệp tâm tánh của mọi chúng sinh nơi quá khứ, vị lai, hiện tại. Như Lai biết tất cả mà không cần quán sát, trí Phật cũng không tổn giảm. Như Lai biết thời cơ, tùy thuận thuyết giảng kinh pháp cho chúng sinh, không quên sót. Đó là hạnh hai mươi ba của Phật.

Như Lai nói kệ:

Trí nhớ Thế Tôn

Không hề sai sót

Như Lai tối tôn

Không cần suy xét.

Riêng mình đi khắp

Thành tựu chánh giác

Biết tâm chúng sinh

Không hề sai sót.

Như Lai không cần

Dùng thức quán biết

Với trí tuệ sáng

Biết hạnh chúng sinh.

Giúp chúng tu tập

Không chấp việc làm

Như Lai Thế Tôn

Vua của các Pháp.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân đủ các Tam-muội, thấy biết các pháp bình đẳng. Vì sao? Vì Như Lai tu tập bình đẳng, đối với dục, không dục, sinh tử, Niết-bàn Như Lai đều quán xét bình đẳng không sai khác. Vì sao khen Như Lai là bậc sống trong Tam-muội không quên? Vì Như Lai không thoái chuyển, bình đẳng trước mọi pháp, không chấp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhưng lại tùy thuận tất cả. Tam-muội của Phật không nương vào đất, nước, lửa, gió, hư không, không chấp vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc, không chấp đời này, đời sau. Vì không chấp trước nên không tổn giảm, vì thế tâm định của Như Lai không loạn quên. Như Lai giảng pháp cho chúng sinh, giúp những chúng sinh đủ khả năng đạt tâm định. Đó là hạnh hai mươi bốn của Phật.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai sống trong định

Tâm định không tổn giảm

Thuận với tất cả pháp

Hợp tâm định chư Phật.

Không nương đất nước lửa

Gió, Dục, Sắc, Vô sắc

Như Lai không chấp pháp

Nên không tổn Tam-muội.

Phật nói:

–Thiện nam! Trí tuệ của Như Lai không hề tổn giảm. Vì sao? Vì Như Lai biết rõ các pháp, không cao ngạo, giảng giải trí Phật cho chúng sinh, tùy thuận thời cơ, không sai sót. Như Lai thông hiểu về văn tự, chỉ từ một câu, Như Lai giảng diễn suốt trăm ngàn kiếp. Như Lai thản nhiên đáp lời tất cả những vấn nạn về đến đi, tiến thoái. Như Lai thông hiểu ba thừa, phân tích hướng về. Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn bệnh, Như Lai phải cho tám vạn bốn ngàn thứ thuốc kinh. Đó là trí tuệ không thể nghĩ bàn của Phật, dù thuyết giảng bao nhiêu vẫn không tổn giảm. Đó là hạnh hai mươi lăm của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ.

Trí tuệ của Như Lai

Tối thượng ở trong đời

Khéo phân biệt thuyết giảng

Tự tại vượt tất cả.

Giảng dạy cho chúng sinh

Bằng bản tánh thanh tịnh

Chỉ với một câu chữ

Như Lai giảng suốt kiếp.

Biết tâm hành chúng sinh

Trí thấy không biên giới

Bình đẳng nêu giảng cả

Tám vạn bốn ngàn pháp.

An trụ pháp đã giảng

Trí Phật không tổn giảm

Đó là hạnh của Phật

Như Lai Đấng Tối Tôn.

Phật nói:

–Thiện nam! Sự giải thoát của Như Lai không tổn giảm. Vì sao? Hàng Thanh văn nhờ nghe pháp nên giải thoát, hàng Duyên giác quán mười hai nhân duyên nên giải thoát. Chư Phật Thế Tôn vượt mọi trở ngại, trừ hai chấp nên giải thoát. Nghĩa là Như Lai không thấy quá khứ, không mong vị lai, biết hiện tại không dừng, mắt đối với sắc không khởi hai thọ, tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc, tâm với pháp cũng không khởi hai thọ, nên giải thoát. Tâm Phật thanh tịnh, biết tất cả nên vừa phát tâm là thành tựu Bồ-đề vô thượng. Đó là hạnh hai mươi sáu của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ.

Các chúng Thanh văn

Nghe pháp giải thoát

Duyên giác quán duyên

Nên được giải thoát.

Vượt mọi trở ngại

Tịnh địa hư không

Đó là chư Phật

Không chấp các pháp.

Quá khứ, vị lai

Hiện tại giải thoát

Thanh tịnh rốt ráo

Quán căn chúng sinh.

Giáo hóa tất cả

Độ thoát mọi loài

Giải thoát Như Lai

Không hề tổn giảm.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân nhớ biết rất rõ mọi hành nghiệp quá khứ. Như Lai tùy thời độ thoát chúng sinh, không bỏ dở, dù là nói năng, im lặng, ăn uống, ngủ nghỉ. Có chúng sinh nhờ thấy ba mươi hai tướng tốt, được giải thoát nên Phật hiện; có chúng sinh nhờ thấy tám mươi vẻ đẹp được giải thoát nên Như Lai thị hiện; có chúng sinh mong được thấy tướng đỉnh của Như Lai, Phật phóng ánh sáng soi rọi, hiện thần thông, làm chúng an vui, được giải thoát, có chúng sinh gặp Phật, tùy thuận giáo, luật Phật, Phật phóng hào quang chiếu sáng giúp chúng giải thoát; có chúng sinh thấy bước chân Phật đi mà được giải thoát. Có Đức Phật vào xóm làng khuyên dạy để chúng giải thoát. Mọi việc làm, oai nghi cử chỉ của chư Phật đều là tạo lợi ích cho chúng sinh. Đó là hạnh hai mươi bảy của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ.

Với mắt thấy biết

Oai nghi cử chỉ

Đi đứng tới lui

Vào ra nằm ngồi.

Các tướng tốt đẹp

Đỉnh tướng Như Lai

Phật tùy thuận cả

Giáo hóa chúng sinh.

Như Lai Thế Tôn

Phóng hào quang sáng

Vô số chúng sinh

An ổn độ thoát.

Thấy ánh sáng Phật

Tùy thuận luật, giáo

Đó là hạnh nguyện

Chư Phật Thế Tôn.

Phật nói:

–Thiện nam! Lời nói của Như Lai đều xuất phát từ trí tuệ tự tại. Vì sao? Vì Như Lai tùy thời cơ giảng thuyết. Lời Phật không hư dối, luôn thành thật, không lỗi lầm, an ổn, không thô bạo, không mê hoặc, chất trực, không dua nịnh, không độc ác, không chấp chặt, hòa nhã. Như Lai thuận pháp, không phóng túng, không thấp kém, không tạp lẫn, an nhàn. Lời Phật êm dịu, tiếng Phật hay, thong thả, từ tốn, có sức thu hút, không thô, không nhanh vội, có ý nghĩa. Phật luôn tự giữ mình, làm mọi việc hợp với oai nghi, tâm tùy căn cơ, không tham, sân, si, hàng phục tà ma, trừ mọi tật bệnh hiểm ác, phân tích nghĩa lý, làm vui tất cả. Tiếng Phật như tiếng chim loan, tiếng Đế Thích, tiếng thủy triều, tiếng rền của đại địa, tiếng chim mạng mạng. Tâm Phật an định như Tu-di. Tiếng Phật hay như tiếng chim mỏ đỏ, từ hòa như tiếng uyên ương, vang xa như tiếng chim nhạn, dịu dàng như tiếng nai chúa gọi bầy, như tiếng đàn, sáo, tiêu… hòa nhã êm ái. Ai nghe được lời Phật sẽ vui vẻ, tích lũy công đức. Lời Phật vang xa không cùng tận, hợp thời, thuận từng căn tánh. Phật bố thí pháp, trang nghiêm giới cấm, giúp chúng sinh thanh tịnh, tu nhẫn, siêng năng hành hạnh Phật, tu trí, hành từ, không bỏ chúng sinh, không phân biệt, xây dựng ba thừa, không đoạn Tam bảo, hiểu ba tụ, tịnh ba giải thoát, thành thật, không bị người trí chê bai, được Hiền thánh khen ngợi, chí rộng lớn như hư không, đầy đủ công đức. Thiện nam! Lời của Phật hợp thời cơ là thế, siêu tuyệt, vượt tất cả âm thanh, ba cõi không ai sánh, tất cả đều tùy thuận. Đó là hạnh hai mươi tám của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Lời Như Lai luôn từ hòa

Thanh tịnh đủ mọi công đức

Một lời Phật giảng nói ra

Vang xa tam thiên thế giới.

Hàng Thanh văn cùng Duyên giác

Đều nghe được pháp của Phật

Như người có tâm chí lớn

Phát tâm cầu đạt quả Phật.

Phật luôn tùy thuận giảng thuyết

Thông suốt, không hề sai lầm

Như Lai chỉ dạy pháp mầu

Tâm không hề thoái chuyển.

Lời Phật vang khắp mọi nơi

Tất cả thảy đều nghe thấy

Lời của Thế Tôn là vậy

Làm an vui mọi chúng sinh.

Phật nói:

–Thiện nam! Với trí tuệ, Như Lai biết rõ tâm niệm của chúng sinh, thông đạt tất cả. Vì sao? Vì Như Lai không phân biệt tâm ý thức, không vọng tưởng tiến thoái. Trí Phật xua tan tăm tối, thấu suốt tâm niệm của tất cả chúng sinh, vượt mọi sự hiểu biết của các loài. Như Lai đủ chánh định, không nương chấp, vượt cái, ấm, trừ mười hai duyên, đoạn ba niệm, không nhiễm cấu, hàng phục quân ma, không dối gạt, không chấp ta, chặt cây vô minh, tịnh tu đạo nghiệp, tâm như hư không, không vọng niệm, không hoại pháp giới. Thiện nam! Đó là hạnh hai mươi chín của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ.

Như Lai Bậc Tối Thắng

Đầy đủ cả phước trí

Đức trí Phật sáng soi H

ạnh Thế Tôn thanh tịnh.

Phật an trụ trí tuệ

Hiểu rõ tánh chúng sinh

Thâm nhập khắp mọi nơi

Tự tại trong pháp giới.

Tâm định Phật là thế

Đầy đủ mọi pháp lành

Đối với tâm ý thức

Tất cả không vọng niệm.

Vượt qua cõi nước ma

Không có nghiệp tổn hại

Tự tại như hư không

Thanh tịnh không chấp trước.

Phật nói:

–Thiện nam! Như Lai Chí Chân đủ trí tuệ thấy biết mọi việc trong quá khứ nhưng trí không tổn giảm. Vì sao? Vì Như Lai biết rõ sự thành, hoại, hưng, suy, cỏ cây; núi rừng; chúng sinh; thân tướng chủng loại; ngôn ngữ âm thanh; côn trùng; chư Phật xuất hiện, pháp giảng; chúng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát phát tâm vô thượng; tướng tốt xấu; hạnh nghiệp; chúng Tỳ-kheo tu hành; thức ăn; y phục; nơi ở, tâm nghiệp của chúng sinh của tất cả cõi Phật thời quá khứ.

Với trí sáng thù thắng Như Lai thấy biết tất cả, không cần suy xét, do dự, nên luôn tùy thuận thuyết pháp cho chúng sinh. Đó là hạnh ba mươi của Phật.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Thánh huệ sáng của Phật

Không hạn lượng, trở ngại

Nơi cõi của chư Phật

Nêu giảng các kinh pháp.

Chán cảnh giới chúng sinh

Khiến giúp tin Phật đạo

Trong tất cả cõi Phật

Mọi thứ hưng hay suy.

Cỏ cây cùng rừng núi

Tướng tốt xấu sai khác

Chúng sinh ở các cõi

Tâm tánh, chí hướng về.

Tâm chúng sinh quá khứ

Sở thích của mọi loài

Trí bình đẳng Như Lai

Thấy biết không nhầm lẫn.

Phật nói:

–Thiện nam! Trí tuệ của Như Lai biết rõ tất cả mọi việc ở vị lai nhưng không tổn giảm. Vì sao? Vì Như Lai biết rõ mọi việc thành, hoại, hợp tan, kiếp số, nước, lửa… ở đời vị lai. Như Lai biết rõ cõi nước lớn nhỏ, xa gần, số bụi của các cõi Phật thời vị lai. Như Lai biết việc độ sinh của chư Phật, số chúng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát mà Phật độ và mọi việc đi đứng, ăn nghỉ của tất cả chúng sinh cùng với tâm hành, mong muốn của chúng, Như Lai luôn tùy thuận giảng kinh pháp để hóa độ. Đó là hành ba mươi mốt của Phật. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Ở đời vị lai

Có bao nhiêu cõi

Hình thành hủy hoại

Thịnh đạt suy vong.

Chúng sinh, cõi nước

Số lượng chư Phật

Như Lai Chánh giác

Biết rất chính xác.

Tâm không bao giờ

Quên sót nhầm lẫn

Như Lai quán sát

Thấy biết vị lai.

Vì các chúng sinh

Hợp thời thuyết giảng

Đó là hạnh nguyện

Của Phật Thế Tôn.

Phật nói:

–Thiện nam! Trí tuệ của Như Lai thấu rõ mọi việc trong hiện tại, không trở ngại cũng không tổn giảm. Vì sao? Vì Như Lai biết rõ số cõi Phật, Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác trong mười phương hiện tại. Như Lai biết rõ hình dáng và sự vận hành của các ngôi sao, cỏ cây, rừng núi, hang khe, cõi xa gần, số bụi trong các quốc độ, số giọt nước trong biển, sự thiêu hủy của lửa, sự tồn vong của các nước, sự thổi dừng mạnh nhẹ của gió, sự rộng lớn của hư không. Như Lai biết rõ ba hạng chúng sinh, cảnh giới, việc tiến thoái, khó dễ, nguồn gốc cạn sâu, sự lãnh thọ giáo pháp nhanh chậm của chúng sinh. Phật biết tội lỗi của chúng sinh ở địa ngục đã phạm, nguyên nhân tạo tội, cảnh giới thọ sinh sau khi ra khỏi địa ngục, phương tiện trừ tội, tất cả các loài súc sinh, kể cả những loài côn trùng đang sống trong hiện tại, nguyên nhân thọ thân súc sinh, phương tiện trừ tội súc sinh, cảnh giới thọ sinh sau khi hết tội súc sinh; số quỷ đói, cảnh giới của chúng, nguyên nhân đọa làm quỷ đói, phương tiện trừ tội, nơi thọ sinh sau khi hết tội quỷ đói. Như Lai biết rõ tâm niệm, hoài bảo, bệnh tham ái, phương pháp trừ dục ái, sự thọ học kinh, luật; có chúng sinh không học luật, giáo nhờ biết sự thọ sinh, thoái địa của chư Thiên mà trừ dục. Với trí tuệ vi diệu không hai, Phật tùy thuận các loài để thuyết giảng. Đó là hạnh ba mươi hai của Phật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Trí tuệ Như Lai

Biết rõ tất cả

Vượt mọi giới hạn

Không thể nghĩ bàn.

Chẳng khác hư không

Không thể ví dụ

Tất cả thế gian

Không ai sánh kịp.

Khắp trong mười phương

Hết thảy mọi loài

Các nghiệp đã tạo

Ngay trong hiện tại.

Như Lai biết rõ

Nguyên nhân nguồn cội

Đó là hạnh nghiệp

Thấy biết của Phật.

Phẩm 22: ĐẠO NHƯ LAI

Phật nói:

–Thiện nam! Đó là hành nghiệp của Như Lai. Với đạo hạnh ấy Như Lai hóa độ chúng sinh, diễn pháp không văn tự, khó thành, khó đạt. Thiện nam! Không ai có thể chế ngự được Như Lai Chí Chân. Hạnh Phật là vô lượng, không thể nghĩ bàn, Trời, Rồng, Thần, Người đều không thể suy biết. Từ không ngôn ngữ, Phật tạo phương tiện giảng thuyết, không gì ngăn chống được. Hạnh Phật rộng lớn khắp các cõi, siêu vượt, không tà vạy, không vọng tưởng, bình đẳng như hư không, không khác pháp giới. Vì sao? Vì pháp Phật giảng thuyết là vô lượng nhân, giảng thuyết không thiên lệch. Tất cả chư Phật ở các cõi đều thế, đều cùng thần thông, giải thoát, Niết-bàn.

Thiện nam! Như Lai Chí Chân thành Phật từ một vị trong pháp giới, không chướng ngại trong cõi chúng sinh. Với phương tiện quyền biến, hiểu rõ các pháp không trở ngại, Như Lai giảng pháp giúp chúng sinh không thoái chuyển nơi Bồ-đề vô thượng. Thiện nam! Ví như thợ ngọc mài dũa, tôi luyện một viên ngọc sáng quý, không tỳ vết. Sau đó dùng viên ngọc này để làm cho nước đục thành trong, rồi đem nước dùng vào việc nấu nướng hoặc uống, công việc ấy không khó nhọc. Kế đó người thợ ngọc ngâm viên ngọc trong nước thuốc, tẩy hết mọi vết nhơ bám vào, viên ngọc trở thành viên ngọc dạ quang. Như Lai cũng thế, quán sát cảnh giới ô uế của chúng sinh, biết chúng sinh mê hoặc, chìm đắm trong sinh tử, chịu bao khổ não, Như Lai thuyết giảng pháp vô thường, khổ, không, vô ngã để chúng sinh đi vào pháp Phật. Như Lai dễ dàng làm mọi việc đó, thông đạt Không, Vô tướng, Vô nguyện, chỉ dạy cho chúng sinh bằng lòng Từ, siêng năng nhưng không chấp trước, thành tựu đạo không thoái chuyển, giảng giải pháp ba thừa, trình bày cảnh giới Phật, đưa chúng sinh vào cõi Phật, đạt pháp Bồ-đề vô thượng của Phật.

Thiện nam! Vì thế cần quán biết Tam-muội của Như Lai thật không thể nghĩ bàn, bình đẳng, thông cả ba đời, không đoạn Tam bảo. Như Lai an trụ nơi đạo hạnh bình đẳng như hư không, tự tại hiện thân khắp các cõi Phật, không chấp các pháp, tùy thuận theo ngôn ngữ của chúng sinh mà chỉ dạy. Như Lai thuyết pháp cho chúng sinh nhưng không chấp, biết rõ tâm tánh, sở thích của chúng. Với chí nguyện thanh tịnh của các Bồ-tát, Như Lai xuất hiện ở đời.

Thiện nam! Hạnh nghiệp của Như Lai vốn không, nghĩa là không trụ vào đâu, không tránh xa, không ngừng nghỉ. Như Lai truyền dạy cho các Bồ-tát. Lúc Phật giảng nói pháp hạnh của Như Lai, cõi nước khắp mười phương đều chấn động sáu cách. Ánh sáng soi khắp các cõi, bảo vật hoa hương trời tuôn đầy xuống bảo tòa Sư tử của Phật. Đại chúng Thanh văn, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ nghe kinh này đều rất vui mừng, phát khởi tâm lành. Tất cả đều dâng hoa, hương, vòng hoa, hương xoa, cờ, phướn, lọng, đánh trống, trổi nhạc, đánh đàn, thổi sáo để cúng dường Như Lai. Chúng sinh dâng đủ loại lên Phật nào là ngọc báu trên đầu, nào là dầu xoa tóc, anh lạc báu, ngọc minh nguyệt, ngọc hoài nguyệt, hoa giải thoát, ngọc không tỳ vết, dây thao đỏ, trái báu, chim nhạn, sợi, vật tịnh, vật không chấp, dây chuyền, vật trang sức nơi tay, chân, ngọc dạ quang, ngọc tử ma, ngựa báu, châu xanh đỏ, ngọc nguyệt quang, ngọc quý, bạc, vàng, các loại hương, hương chiênđàn, hương chiêm đường, hương hắc diệu, hương giống người, các loại hoa trời, hoa ý, hoa vô cực ý, hoa nguyệt độ nguyệt, hoa nhu nhuyến âm, hoa trên đất, hoa trăm cánh, hoa ngàn cánh, các loại hoa ánh sắc xinh đẹp, hoa thanh liên, hoa phù dung, hoa tu-ma-na, hoa vô ưu, các loại nhạc bằng trống, ống sáo, ống tiêu các Bồ-tát bay lên hư không gieo mình xuống để cúng dường Phật. Bấy giờ, trong hư không tự nhiên xuất hiện tòa báu cao lớn, trang sức bằng các loại vật báu như vàng bạc anh lạc vô số Bồ-tát xuất hiện, đi quanh Phật bảy vòng, an tọa nơi tòa sen báu. Vô số chư Phật ở mười phương đều khen ngợi để cúng dường kinh điển giải thoát ấy. Cúng dường xong, chư Phật bảo các Bồ-tát đệ tử đến cõi Nhẫn này. Ở cõi Nhẫn tự nhiên xuất hiện một tòa báu. Đại chúng thấy vậy đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Vô số Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn quán sát chúng Bồ-tát, hỏi:

–Các Đại sĩ! Ai có thể lãnh nhận việc giữ gìn, ngày đêm túc trực, không vọng tưởng, im lặng để bảo vệ tòa báu cùng các vật trang sức trên bảo tòa này đợi đến năm thứ mười sáu kể từ khi thành Phật, Đức Di-lặc sẽ an tọa tòa ấy. Đó là hạnh nguyện của các Bồ-tát ở trong pháp hội nêu giảng pháp môn Vô cái này. Đức Di-lặc sẽ thuyết kinh này vào lúc đó, các Bồ-tát hãy cúng dường Đức Di-lặc và Bồ-tát thuộc Hiền kiếp.

Nghe Phật hỏi, Bồ-tát Biến Động Chư Pháp Vương rời tòa, quỳ gối, chắp tay, bạch Phật:

–Bạch Tôn! Con xin làm việc ấy.

Lúc đó, ma vương Sở Tác đến cùng bốn ma hỏi Bồ-tát Biến Động Chư Pháp Vương:

–Thiện nam! Ông cất tòa báu này vào đâu để không hư hoại?

Bồ-tát đáp:

–Thiện nam! Cái gì có hình đều sẽ hư hoại, là vô thường, không thể trường tồn. Chỉ có hư không là không hủy hoại, không trở ngại, là nơi cất giữ an toàn nhất. Thiện nam! Hãy nhìn kỹ vào thân ta. Nhìn thật kỹ, không được nháy mắt, ông sẽ thấy vật ấy.

Theo lời Bồ-tát, ma vương Sở Tác làm theo. Ma vương thấy từ rốn của Bồ-tát hiện ra một cõi nước tên Thủy vương quang minh. Vì cõi đó đầy nước, nhìn từ xa chẳng khác nào một biển lớn. Đức Phật cõi ấy hiệu Lạc Liên Hoa Thủ. Chúng đệ tử đều là Bồ-tát Đại thừa. Trong cõi ấy có hoa sen tên Bảo trang nghiêm. Như Lai và Bồ-tát an tọa nơi tòa sen ấy. Thấy vậy ma vương Sở Tác chắp tay, cúi lạy Bồ-tát. Bồ-tát Biến Động Chư Pháp Vương hỏi:

–Nhân vương! Có thấy vật đựng chưa? Ở đó có thể cất được tòa báu này, dù trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp số các vật trang sức trên bảo tòa vẫn không thể bị hư hoại.

Nghe vậy, ma vương cúi lạy Phật thưa:

–Thế Tôn! Từ xưa đến nay, tâm con tạp loạn chưa từng được gặp các Bồ-tát như thế, chưa từng được nghe kinh pháp này, chúng con chỉ mong đạt quả Thanh văn, Duyên giác là đã diệt độ. Hôm nay, con được thấy Bồ-tát Biến Động Chư Pháp Vương với oai thần khó lường và được nghe kinh này, con nguyện phát tâm Bồ-đề vô thượng không thoái chuyển, ở trong pháp Phật, thương yêu bảo vệ chúng sinh. Dù con phải đọa địa ngục trong hằng sa số kiếp mới thành Phật con vẫn không hối hận, không bỏ pháp Phật.

Đức Phật khen ma vương Sở Tác:

–Lành thay, lành thay! Ngươi đã vì đạo mầu, mặc giáp thệ nguyện lớn ngươi sẽ toại nguyện.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 7

Phẩm 23: TÁM TỔNG TRÌ

Lúc đó, Bồ-tát Sư Tử Anh hỏi Bồ-tát Tổng Giáo Vương:

–Thiện nam! Bồ-tát thành tựu pháp Tổng trì gì để nghe được kinh điển vi diệu của Phật, giáo hóa chúng sinh, giúp chúng tỏ ngộ?

Bồ-tát Tổng Giáo Vương đáp:

–Bồ-tát thành tựu tám pháp Tổng trì sẽ làm được việc ấy. Tám pháp: Tịnh quang âm, Vô tận pháp tạng, Vô lượng thoái tiến, Hải ấn ý, Liên hoa nghiêm, Nhập vô ngại ấn, Nhập phân biệt biện, Kiến lập Phật trang nghiêm.

Bồ-tát Sư Tử Anh thưa:

–Thiện nam! Xin rủ lòng giải thích rõ tám pháp Tổng trì ấy để các Bồ-tát biết cách tu tập.

Bồ-tát Tổng Giáo Vương bảo:

–Thiện nam! Tôi sẽ nói về tám pháp Tổng trì. Thế nào là Tịnh quang âm? Bồ-tát an trụ Tổng trì này không bị trở ngại, thuần khiết, kiên cố. Bồ-tát giảng kinh, tiếng pháp sẽ vang xa khắp một, hai, ba, mười, hai mươi, một trăm ngàn, vạn, ức vô lượng na-do-tha cõi Phật. Bồ-tát muốn tiếng pháp vang xa bao nhiêu thì sẽ toại nguyện. Bồ-tát an trụ nơi tòa Sư tử giảng kinh cho tất cả chúng sinh, nếu muốn chúng sinh trong hai mươi dặm, ba mươi dặm, một Tu-di, cho đến trời Phạm thiên được nghe thì cũng được toại nguyện. Tất cả chúng sinh tùy theo căn tánh mà nghe và hiểu pháp. Bồ-tát an tọa nơi tòa Sư tử, chư Phật khắp mười phương hiện thân thuyết pháp cho Bồ-tát. Nhờ nghe pháp, Bồ-tát đạt sức Tổng trì, nhớ kỹ pháp, hiểu nghĩa pháp, đủ biện tài giảng thuyết, từ một chữ giảng vô số nghĩa. Bồ-tát giảng các pháp không tướng, không nơi chốn, không dừng trụ, an nhiên, không trùng lặp, không đến, thanh tịnh, không căn, không sinh, không biên giới, không thành, không tận, không hành, không khởi, không nhân duyên, không hạn, không chống, không diệt, không nguyện, không đùa, không vọng tưởng, hợp, không hợp, không thể nói năng, không giáo hóa, không niệm, không hư, không dựa, không hối, không suy xét, không thầy bạn, vắng lặng, không ngã, không nhân, không thọ mạng, không trường tồn, không oai nghi, rỗng lặng, tịch tĩnh từ bên trong, không thời gian, không làm, không chấp, không tu tập, không thân, không tạo tác, không nghiệp, không nhập, không báo, không hợp, không hoại, không lấy bỏ, không gấp, không nắm bắt, không tiếp xúc, không lậu hoặc, không lưu truyền, không chí, không bè nhóm, không sở thuộc, không sắc, vô thường, không đau khổ, không dục vọng, không hay biết, không cảnh giới, không tham, không hình tượng, không hàng phục, không tiêu trừ, không nhớ, không hai, không bờ bến, không hư diệt, không tranh chấp, không tên, không tạp lẫn, không thiêu hủy, không ác, không nước cấu uế, không tai họa, không thể đếm, không cầu, không động, không hiện, không chiếu, không so sánh, không tà vạy, không thiên lệch, không tối, không sáng, không tội, đủ điều tốt, không tiến thoái, không thấy, không nếm, không mềm cứng, không trơn rít, vượt ngoài tâm ý thức, bình đẳng, vốn tịnh, không sinh diệt.

Thiện nam! Bồ-tát thành tựu tổng trí Tịnh quang âm sẽ có đủ biện tài giảng thuyết. Từ một câu chữ, Bồ-tát có thể giảng giải suốt một kiếp hay hơn một kiếp. Tóm lại, từ một câu, một chữ, Bồ-tát có thể giảng diễn mãi, không cùng tận. Bồ-tát làm thanh tịnh oai nghi, tùy thời cơ diễn giảng, tu tập tâm Từ, thanh tịnh bố thí, ban cho tất cả. Bồ-tát giữ giới thanh tịnh, không khiếm khuyết; tu Nhẫn ba-la-mật, không tổn hại; hành tinh tấn thanh tịnh, an ổn làm mọi việc; thiền định thanh tịnh, tịch tĩnh không loạn; đủ trí thanh tịnh, trừ hết tối tăm. Bồ-tát làm thanh tịnh hạnh nguyện, không lỗi lầm; thanh tịnh ba mắt; tai thanh tịnh, nghe tất cả pháp Phật; mũi thanh tịnh ngửi hương pháp giới; lưỡi thanh tịnh nếm vị pháp; thân thanh tịnh không cấu nhiễm khi thọ thân, tâm thanh tịnh tùy thời nhập pháp; sắc thanh tịnh trang nghiêm tướng tốt; thấy thanh tịnh, vào tai không loạn; hương thanh tịnh, xông giới, thí; vị thanh tịnh vì thành tướng tốt; sự xúc chạm thanh tịnh, chân tay mềm mại; pháp thanh tịnh đủ ánh sáng pháp; ý thanh tịnh nhớ rõ các pháp đã nghe; chí thanh tịnh vượt đường ma; hạnh thanh tịnh thâm nhập pháp vi diệu. Bồ-tát trụ Tổng trì này, được chư Phật phóng quang soi rọi, diễn giảng giáo pháp của chư Phật nơi mười phương, đủ biện tài không ngại. Thiện nam! Tổng trì Tịnh quang âm có đủ công dụng không thể nói năng, không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm, không cùng tận, không chướng ngại.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Vô tận pháp tạng? Sắc không tận vì sắc vô thường, khổ, vô ngã, tịch tĩnh, hư ảo, bọt, huyễn, dợn nắng, trăng dưới nước, như mộng, là tiếng vọng, như bóng, ảnh trong gương, không có, không học, không cứu cánh, trống rỗng, không tướng, không nguyện, không hành, không sinh, không khởi, tự nhiên vốn không, quá khứ tự nhiên, vị lai tự nhiên, hiện tại tự nhiên, điềm tịnh, tĩnh mặc, không động, không đùa, không thể nghĩ bàn, không tướng mạo, không thể chất, không nhân, không thọ, không mạng, không nuôi, ngu si, không nhân từ, không thần, như củi, cây cỏ, tường vách, ngói đá, tướng cuồng, bốn đại, không tiếng, không giáo, không được, niệm định, duyên khởi, không đoạn, không phải thường, như nhà, không đau, có từ tội phúc, pháp giới, trụ pháp giới, không động, không thọ, không chở, không niệm, không tánh, vô lượng, vô biên, vốn tịnh trong đạo, như hư không, vốn tịnh trong Niết-bàn. Tóm lại, tất cả năm ấm, sáu suy (trần), hình, sắc, thân thức đều thuộc tuệ không tận, bốn kho pháp báu cũng thuộc tuệ không cùng tận. Tổng trì Vô tận pháp tạng có đủ công dụng, dù giảng nói suốt một kiếp hay hơn thế nữa vẫn không thể hết.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Vô lượng thoái tiến? Đó là quán biết vòng luân chuyển của mười hai duyên khởi, vô minh làm nhân cho hành, hành dẫn đến thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già bệnh chết ưu bi khổ não. Trừ vô minh là trừ tất cả hành sầu lo khổ não. Mười hai duyên khởi ấy thật vô lượng, vô biên nên là vô lượng tiến thoái. Vừa lấy vừa bỏ là lưu chuyển, không sinh diệt. Vì khi hòa hợp với trần lao thì có tranh chấp, nhưng khi về với nguồn gốc thì thanh tịnh, không chấp trước, không buông lung. Từ đó thấy các pháp có vận hành, hợp không hợp, niệm không niệm, xoay chuyển lại không tưởng, không niệm, không hợp, không không hợp. Từ thấy nhân duyên xoay chuyển, đoạn thấy nhân duyên; từ danh sắc chuyển sang không danh sắc; từ hữu vi vô vi chuyển sang thanh tịnh; từ có trong ngoài chuyển sang không trụ thức; từ tội phước báo ứng chuyển sang không tội phước báo ứng; từ thiện ác chuyển sang không thiện ác; từ hữu lậu vô lậu chuyển sang không chấp cả hai; từ vô minh tăm tối chuyển sang thanh tịnh sáng suốt; từ chấp có ngã không ngã chuyển sang thanh tịnh cả hai; từ sinh tử Niết-bàn chuyển sang tịch tĩnh. Thiện nam! Bồ-tát an trụ Tổng trì Vô lượng tiến thoái này thấy không sinh khởi, trải qua vô số kiếp thuyết giảng kinh pháp vẫn không thể hết, thông đạt trí tuệ, làm thanh tịnh tất cả soi sáng mọi pháp.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Hải ấn ý? Thiện nam! Tất cả mọi hình sắc trong bốn cõi như sông núi, cỏ cây, mặt trăng, mặt trời, châu ngọc, ánh sáng, làn chớp, xóm làng, thành ấp, nhà cửa, vườn, ao, suối, nguồn, đi đứng, họat động, tốt xấu, thiện ác, thượng, trung, hạ đều từ biển. Bồ-tát trụ nơi Tổng trì Hải ý bình đẳng ấn, biết tất cả chúng sinh, tùy thuận thuyết giảng, được nghe pháp của chư Phật nơi mười phương, Bồ-tát thuyết pháp được chư Phật ấn chứng, khiến cho tất cả đều vui nghe. Tất cả đều được trí tuệ Như Lai ấn chứng. Ấn “vô”; không tâm hành, tự nhiên tịch tĩnh; ấn “ly”: Từ dục được thanh tịnh; Ấn “độ”: Giảng pháp mầu thông đạt tất cả ấn “hiệu”: Biết tất cả tên; ấn “lạc”; trừ tham dục, khát ái, phóng túng; ấn “thập”: Đủ mười Lực; ấn “Bị khủng”: Trừ các ý tưởng ấn “thiếu trá” không còn bị thiêu đốt; ấn “ lục” thành tựu sáu thần thông; ấn “tả phi”: Trừ bỏ tà đạo; ấn “ thẩm”: Thuyết giảng chân đế; ấn “như”: Hạnh nguyện như thật; ấn “đa”: Trừ bỏ tất cả nguồn gốc; ấn “ca”: Không tạo nghiệp; ấn “ta”: Thông đạt chí thành, đủ uy lực; ấn “sinh”: Vượt sinh già chết; ấn “chí”: Ý thanh tịnh; ấn “giới”: Không hoại pháp giới; ấn ‘tịch”: Điềm tịnh; ấn “hư”: Như hư không, không cùng tận; ấn “tận”: Trừ vọng tưởng; ấn “lập”: Trụ vững nơi ý giác; ấn “tri”: Biết tất cả chúng sinh; ấn “phổ”: Diễn giảng mọi pháp hưng suy; ấn “hữu”: Hiểu rõ có, không; ấn “tham”: Trừ tham dục, sân hận, ngu si; ấn “kỷ”: Tự thân thành Chánh giác; ấn “tự: Tự hiểu; ấn “đán”: Trừ mọi chấp tướng; ấn “số”: Diệt tận nguồn gốc; ấn “xứ”: Trừ các ấm cái; ấn “tật”: Trừ tật bệnh; ấn “thí”: Xông hương thí, giới; ấn “kiên”: Trừ tánh chấp cứng; ấn “cứu”: Hiểu rõ nghĩa lý văn tự. Thiện nam! Bồ-tát ấn biết tất cả văn tự để thuyết giảng là Tổng trì Hải ấn ý.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Liên hoa nghiêm? Bồ-tát ở trong chúng hay ở chỗ mình thuyết giảng kinh điển, tự nhiên có hoa sen tươi đẹp xuất hiện ở đó. Bồ-tát an tọa nơi tòa sen. Trong hư không tuôn đầy hoa sen. Từ các hoa sen vang ra tiếp pháp vi diệu sâu xa, không tạp lẫn, đó là mười hai bộ kinh: Văn, Đắc, Thính, Phân biệt, Hiện, Ứng thời, Sinh, Phương đẳng, Vị tằng hữu, Thí dụ, Chú giải, Hành. Ai nghe thấy tiếng ấy sẽ trừ hết khổ não. Bồ-tát an nhiên tịch tĩnh. Từ mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ-tát, phóng ra ánh sáng, biến thành hoa sen, trên mỗi hoa sen đều có Bồ-tát hóa. Các Bồ-tát đến cõi Phật mười phương, cúng dường Phật.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Nhập vô ngại? Bồ-tát nhớ rõ tất cả các pháp đã nghe dù là một, hai, ba, bốn, mười, ngàn, trăm, ức câu, giảng thuyết thông suốt kinh pháp, làm vui tất cả chúng sinh, luôn thuận hợp, không tán loạn, đi lại vô lượng vô số cõi Phật thuyết giảng kinh pháp, từ một cõi, hai, ba, bốn, mười, trăm ngàn ức cõi vẫn không chấp trước, không trụ vin. Lời củaBồ-tát hòa nhã, êm dịu, hợp thời, không lỗi lầm, tất cả đều vui nghe, không chướng ngại.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Nhập phân biệt? Hiểu thời cơ, trí tuệ không cùng tận, phân biệt pháp là tùy thời phân biệt thuyết giảng bằng trí tuệ, nhưng không cùng kiệt; phân biệt biện: Đạt trí vô biên. Bồ-tát đạt trí này, tập hợp tất cả chúng sinh ở phương Đông về một nơi, từ một âm thanh Bồ-tát thuyết giảng cho chúng sinh đó với ngôn ngữ, ý nguyện khác nhau nhưng đều hiểu được pháp. Bồ-tát trả lời thông suốt mọi nghi vấn. Chúng sinh ở phương Tây, Nam, Bắc, bốn góc đều thế. Bồ-tát cùng một lúc giải đáp tất cả nghi vấn của chúng đó, tùy thuận từng loại ngôn ngữ mà giảng thuyết, tất cả đều hiểu, tùy tâm nhập đạo. Bồ-tát dùng một âm nhưng bao hàm tất cả các âm thanh ngôn ngữ, vô số ngôn ngữ nằm trong một âm thanh. Đó là Tổng trì Nhập phân biệt biện.

Thiện nam! Thế nào là Tổng trì Kiến lập Phật trang nghiêm? Bồ-tát đạt Tổng trì này, khi lên pháp tòa thuyết pháp cho đại chúng, thì trong hư không có đức hóa Phật với đủ ba mươi hai tướng tốt, đưa tay xoa đầu Bồ-tát. Nhờ uy lực Phật, thân Bồ-tát biến thành thân Phật đủ các tướng tốt, Bồ-tát đủ biện tài giảng thuyết như Phật, tâm ý như Phật. Bồ-tát thành tựu pháp lực như thế hiểu được tâm niệm, hành nghiệp của chúng hội mà thuyết giảng giáo pháp. Bồ-tát không ăn uống từ một ngày, hai ngày, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, năm trăm năm, ngàn năm cho đến vô số năm không thể tính đếm để thuyết giảng kinh pháp cho đại chúng, song kinh pháp Bồ-tát giảng vẫn không cùng tận, thân Bồ-tát không mỏi mệt, tâm Bồ-tát không quên sót. Đó là nhờ oai lực của Như Lai. Nhờ lực Phật, Bồ-tát thành tựu bốn tuệ lớn: Hiểu tâm ý của tất cả chúng sinh; thông suốt tất cả văn tự; giảng pháp bằng trí Phật nên không cùng tận; tùy thuận căn tánh sở thích của chúng sinh mà giảng các thừa pháp. Thiện nam! Công dụng của Tổng trì này là vô lượng không có biên vực, thể nói hết thông suốt mọi cảnh giới Phật. Chỉ có thể nói lược về ý nghĩa thôi.

Bồ-tát Tổng Giáo Vương lại nói kệ:

Bồ-tát nào an trụ

Tám pháp Tổng trì trên

Đối với các thừa pháp

Phân biệt hiểu tất cả.

Dù thuyết giảng ngàn năm

Lời lẽ vẫn không cùng

Trí tuệ phân biệt giảng

Vẫn không hề tổn giảm.

Tiếng Phật rất hòa nhã

Âm hưởng thật vi diệu

Rền vang hằng hà sa

Vô lượng cõi Như Lai.

Chúng sinh nào nghe được

Thành tựu pháp giải thoát

Tổng trì này thanh tịnh

Âm thanh lại vang xa.

Giảng thuyết vô số kiếp

Pháp kinh không cùng tận

Tất cả các ngôn ngữ

Không thể nào diễn giảng.

Hết thảy mọi văn tự

Bậc trí tùy thời giảng

Đó là tạng pháp Phật

Vô biên, không bờ bến.

Vượt ngoài mọi cảm thọ

Hạnh đức luôn thanh tịnh

Không chấp trước các pháp

Không thoái chuyển theo cảnh.

Dũng mãnh truyền bá pháp

Chuyên tâm phụng hành pháp

Thành tựu pháp Tổng trì

Trừ diệt tận nguồn gốc.

Tất cả các chúng sinh

Khắp trong bốn thiên hạ

Với Tổng trì ấn biết

Như biển chẳng suy xét.

Bồ-tát nhờ thành tựu

Tổng trì Hải ấn nầy

Biết rõ mọi tâm hành

Giảng thuyết không thể bàn.

Bồ-tát vào trong chúng

Giảng thuyết các kinh pháp

Trong hư không tuôn mưa

Vô số hoa sen đẹp.

Từ trong các hoa sen

Rền vang tiếng kinh pháp

Tổng trì Liên hoa nghiêm

Đức thanh tịnh như thế.

Từ một âm vang ra

Hai ba bốn năm sáu

Tất cả tiếng khác nhau

Nghe hiểu không nhầm lẫn.

Trăm ngàn ức do tha

Ngôn ngữ không cùng tận

Thành tựu Tổng trì này

Thấy biết không trở ngại.

Đủ biện tài giảng thuyết

Tùy thuận cả thời, cơ

Chúng sinh ở mười phương

Đến vấn nạn Bồ-tát.

Bồ-tát tùy thuận đáp

Xua tan mọi nghi ngờ

Thành tựu pháp Tổng trì

Ý tỏ ngộ như thế.

Bồ-tát bậc Đại sĩ

An tọa pháp tòa cao

Chư Phật đưa ta phải

Xoa đỉnh đầu Bồ-tát.

Bồ-tát đạt biện tài

Chẳng khác gì chư Phật

Nhờ thành tựu Tổng trì

Phật kiến lập trang nghiêm.

Giả sử Bồ-tát này

Thành tựu Tổng trì ấy

Tâm ý đủ các đức

Rộng lớn không thể lường.

Dù trải ngàn ức kiếp

Như số cát sông Hằng

Để khen ngợi công đức

Vẫn không thể cùng tận.

Thanh tịnh vào ba cõi

Như hoa sen không nhiễm

Kiên cố như Tu-di

Không hề bị dao động.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Tổng trì Vô thượng này

Trí tuệ biết cùng khắp

Thông suốt cả ba đời.

Dù vào trong hội chúng

Dũng mãnh như Sư tử

Hàng phục các ngoại đạo

Khiến chúng học pháp Phật.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Tổng trì Vô thượng này

Đi lại khắp mọi nơi

Không hề lo sợ gì.

Phóng hào quang sáng soi

Tùy thời rọi tất cả

Hạnh đức như nước chảy

Tẩy trừ mọi ô uế.

Và cũng như lửa lớn

Không vọng tưởng, suy niệm

Hạnh đức tựa gió thoảng

Không chấp trước cảnh giới.

Lại như thầy thuốc giỏi

Trị lành tất cả bệnh

Tùy thời cho thuốc pháp

Đun nấu để chữa trị.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Đủ trí không sân hận

Tùy căn tánh giảng dạy.

Hạnh đức như trăng sáng

Xua tan màn đen tối

Tâm chân chánh sáng soi

Rực rỡ hiển pháp mầu.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Chúng sinh luôn tôn kính

Chiêm ngưỡng không chán ghét.

Hạnh như mặt trời sáng

Xua tan hết bóng tối

Chỉ dạy mọi chúng sinh

Khai ngộ cả ba cõi.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Làm khô cạn dòng nước

Ái dục và trần lao.

Hạnh đức như nhà vua

Cai trị dân trong nước

Ban thuyết các pháp mầu

Giáo hóa tất cả chúng.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Trừ hết mọi cảm thọ

Không chấp trước các cõi.

Hạnh đức như rồng chúa

Kiên cường đủ thần biến

Nổi mây tuôn mưa pháp

Phóng ánh chớp sáng soi.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Luôn tuôn mưa chánh pháp

Tiêu diệt mọi nóng bức.

Hạnh đức như Đế Thích

Không đắm nhiễm sắc dục

Thấy rõ pháp mê lầm

Tịnh tâm tư duy pháp.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Tất cả các hội chúng

Đều chiêm ngưỡng tôn nhan.

Hành hạnh Từ bi lớn

Đi khắp như Phạm thiên

Hết thảy không ai bằng

Được thọ sinh cõi này.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Sinh vào cõi Phạm thiên

Sống trong hạnh thanh tịnh.

Thành tựu năm thần thông

Khác với các người thường

Qua trăm ngàn cõi Phật

Không thể nào đếm được.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Đi lại khắp mười phương

Cúng dường vô số Phật.

Được chư Phật ngợi khen

Dù ở nơi chốn nào

Luôn được Phật thương yêu

Như đứa con duy nhất.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Sẽ không còn bao lâu

Thành tựu công đức Phật.

Đầy đủ biện tài lớn

Diễn thuyết không cùng tận

Giảng vô số kinh pháp

Vi diệu và sâu rộng.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Trang nghiêm hạnh như hoa

Biện tài tợ dòng thác.

Kiên định vào trong chúng

Thấy biết hết mọi pháp

Trí tuệ không bờ bến

Hạnh nguyện như hư không.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Không còn tâm kiêu mạn

Trừ dối gạt, tự cao.

Đủ trí tuệ quyền biến

Tự tại đi khắp nơi

Siêng năng phụng hành pháp

Luôn tu tập Từ bi.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Diệt trừ hết tất cả

Mọi cấu uế hữu vi.

Hiểu ngôn ngữ chúng sinh

Và các pháp thiện ác

Biết sở thích mọi loài

Tỏ căn hạnh muôn sinh.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Diễn thuyết mọi kinh pháp

Không thể nào cùng tận.

Siêng năng tu thiền định

Năm căn và năm lực

Đường giác ý như thế

Nẻo tịch tĩnh vô thượng.

Nếu Bồ-tát đạt được

Pháp Tổng trì vô thượng

Quán sát tất cả pháp

Thành tựu hạnh thanh tịnh.

Trọn vẹn Ba-la-mật

Đạt giải thoát cứu cánh

Mạnh mẽ và tỏ ngộ

Bốn pháp nhẫn bằng tuệ.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Tự nhiên tỏ ngộ pháp

An trụ các hạnh nguyện.

Tịch tĩnh và an nhiên

Nhân hòa, không phóng túng

Đủ oai nghi phép tắc

Phân biệt an trụ vững.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Sẽ không còn vướng mắc

Trần lao cõi tử sinh.

Hiểu các pháp như huyễn

Chí tánh không cấu nhiễm

Dù vào thai thọ sinh

Vẫn không bị uế tạp.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

An trụ trên hoa sen

Được ở bên cạnh Phật.

Thân, khẩu, ý ba nghiệp

Oai nghiêm không lậu hoặc

Thành tựu trí nhất thiết

Hóa độ mọi quần mê.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Được chư Phật gia hộ

Tự tại thuyết pháp mầu.

Thành tựu trí tuệ lớn

Hành đạo vì chúng sinh

Trải qua vô số kiếp

Ca ngợi vẫn không hết.

Nếu Bồ-tát thành tựu

Pháp Tổng trì vô thượng

Trọn vẹn các công đức

Không thể nào tính đếm.

Đức Thế Tôn ngợi khen Bồ-tát Tổng Giáo Vương:

–Hay thay! Hay thay! Ông đã khéo giảng diễn về các pháp Tổng trì. Pháp này tự tại, không nương tựa, không cần người khác. Ông đã từng hỏi pháp Tổng trì này với chư Phật quá khứ. Thiện nam! Đó là thật pháp, hãy quán sát kỹ.

KINH ĐẠI BI

[^]

KINH ĐẠI BI

Hán Dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, Người Nước Nguyệt Chi

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 8

Phẩm 24: QUÁ KHỨ

Phật nói:

–Thiện nam! Cách vô lượng vô số kiếp không thể nghĩ bàn ở thời quá khứ, có Đức Phật hiệu Ly Cấu Quang, là Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước tên Thiện ly cấu, kiếp tên Chiếu minh. Cõi ấy thanh tịnh, mặt đất là lưu ly sáng như gương, đất đai bằng phẳng, có các hàng cây bảy báu; có hoa sen báu to bằng bánh xe, tươi đẹp ưa nhìn. Nhà cửa cung điện, tinh xá đều bằng vật báu. Cuộc sống của trời, người ở đây như cõi trời thứ sáu Tự tại thiên. Họ sống an nhàn, ít tham, sân, si, tự tại tịch tĩnh. Cõi này không có mặt trời mặt trăng, vì Đức Ly Cấu Quang luôn phóng ra ánh sáng soi chiếu khắp cõi nước, ngày đêm luôn sáng. Hoa sen khép biết trời tối, hoa sen nở biết trời sáng. Đức Ly Cấu Quang có tám trăm ức đệ tử Bồ-tát, vô số vô lượng Bồ-tát xuất gia, Bồ-tát tại gia phát tâm Bồ-đề vô thượng. Ở cõi này không có ngoại đạo hoặc các thừa pháp khác, chỉ có Đại thừa. Chúng sinh thuần tịnh, không thoái chhuyển. Đức Ly Cấu Quang giảng pháp không, vô tướng vô nguyện. Đức Phật thọ mạng nữa kiếp, chúng sinh ở cõi này được phân thành hai: Số ở dưới đất, cất nhà cửa trên đất là người, chúng ở trong hư không là trời. Cuộc sống của họ không khác nhau. Trời người ở đây một lòng phụng Phật, không có tà ý, tôn thọ kinh pháp Phật, tư duy pháp Phật. Cõi nầy không có người nữ, không có tội lỗi, không dục trần, chúng sinh ở đây chuyên học ba pháp: Giới, định, tuệ. Giới: Luôn tâm niệm tu tập trí tuệ, trừ các hành. Định: An trụ tâm ý, thành tựu thần thông.

Trí: An trụ trí Ba-la-mật, đạt biện tài phân biệt. Thiện nam! Đó là pháp Ba-la-mật. Các Bồ-tát ở đây không thọ giới cấm, vì luôn thanh tịnh. Lúc ấy, Đức Thế Tôn giảng thuyết pháp vô thượng. Trong chúng Bồ-tát có Bồ-tát tên là Quang Thủ, rời tòa ngồi, trịch vai áo bên phải, quỳ sát gối phải, chắp tay bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Thế nào là Tổng trì? Bồ-tát an trụ Tổng trì nào để nghe hiểu tất cả pháp Phật và diễn thuyết cho chúng sinh?

Phật nói:

–Thiện nam! Bồ-tát an trụ nơi Tổng trì Bảo diệu sẽ làm được việc ấy.

Bồ-tát thưa:

–Xin Như Lai giảng rõ để chúng con lãnh hội, tu học thành tựu các Tổng trì.

Đức Phật Ly Cấu Quang liền nói kệ:

Đạt Tổng trì Bảo diệu

Cần trừ hết trần cấu

Vào dơ nhưng không nhiễm

Không nhiễm một pháp não.

Tâm tịch tĩnh, không chấp

Đạt Tổng trì Bảo diệu

Thành tựu Tổng trì này

Soi rọi khắp tất cả.

Thân, khẩu luôn thanh tịnh

Tâm sáng lìa nhiễm uế

Bình đẳng hành Từ bi

Là Tổng trì Bảo diệu.

Vượt thoát ba mươi hai

Trừ tất cả vọng tưởng

Lìa hy vọng mong cầu

Là Tổng trì Bảo diệu.

Mạnh mẽ đến các cõi

Đức lớn tựa hư không

Hiểu tất cả tịch tĩnh

Là Tổng trì Bảo diệu.

Không đoạn diệt Tam bảo

Trừ ba cấu ba đời

Khô cạn dòng khổ não

Là Tổng trì Bảo diệu.

Diệt tham dục, sân, si

Trừ trần lao nhơ uế

An tọa cội Bồ-đề

Là Tổng trì Bảo diệu.

Tất cả các âm thanh

Thượng trung hạ trong đời

Vào trong một âm thanh

Là Tổng trì Bảo diệu.

Siêng tu hiểu pháp mầu

Thông đạt các nghĩa câu

Không chấp ta hay người

Là Tổng trì Bảo diệu.

Trong biện tài phân biệt

An trụ nơi bốn đạo

Bốn thiên vang ba cõi

Là Tổng trì Bảo diệu.

Thông đạt nghĩa đệ nhất

Thọ bốn hạnh bình đẳng

Tu tập năm thần thông

Là Tổng trì Bảo diệu.

An trụ bốn Ý chỉ (bốn Niệm xứ)

Tùy thuận bốn Chánh cần

Phụng hành bốn Thần túc

Là Tổng trì Bảo diệu.

Vừa thọ trì năm Căn

Lại an lập năm Lực

Tu tập bảy Phần giác

Là Tổng trì Bảo diệu.

Thực hành tám Thánh đạo

Quán sát pháp tịch tĩnh

Thành tựu pháp giải thoát

Là Tổng trì Bảo diệu.

Thần thông đi các cõi

Tùy thuận đạo giải thoát

Trừ diệt mọi phiền não

Là Tổng trì Bảo diệu.

Soi sáng cả ba đời

Bằng hào quang tịch tĩnh

Mắt thanh tịnh chiếu soi

Là Tổng trì Bảo diệu.

Mắt tịnh là mắt pháp

Cũng là mắt Như Lai

Tịnh trần cấu, ma quân

Hủy hoại cả năm ấm.

Thanh tịnh các ma chết

Đủ oai lực trừ ma

An trụ Tổng trì này

Đi lại vô số cõi.

Gặp vô lượng Thế Tôn

Nghe hiểu kinh pháp Phật

Với oai lực Tổng trì

Nhớ rõ pháp đã nghe.

Phân biệt các nghĩa lý

Giảng thuyết cho trời, người

Với trí tuệ sáng soi

Hiểu rõ việc báo ứng.

Biết các pháp bằng tuệ

Trụ Tổng trì Bảo diệu

Biện tài không chướng ngại

Thành tựu ba mắt tịnh.

Trọn vẹn ba giải thoát

Tinh tấn trọn Tổng trì

Trong tất cả Tổng trì

Bảo diệu là hơn hết.

Thiền tọa và giải thoát

Thành tựu Đà-la-ni

An trụ trong thần thông

Nhờ thành tựu pháp này.

Như tất cả sông suối

Đều đổ về biển cả

Tổng trì này cũng vậy

Hàm chứa vô lượng pháp.

Thông hiểu mọi tâm ý

Thành tựu trí vô tận

Phước đức không bờ bến

Là nhờ sức Tổng trì.

Trọn vẹn các tướng tốt

Tánh trí đều thanh tịnh

Như ngọc sáng không vết

Là nhờ sức Tổng trì.

Thâm nhập tạng pháp mầu

Đạt pháp Nhẫn vô sinh

An trụ địa không thoái

Lúc giảng pháp Tổng trì.

Vô số các Bồ-tát

Cầu đạt đạo Bồ-đề

Đã đạt Tổng trì này

Sẽ dễ thành quả Phật.

Các Đức Phật mười phương

Thuyết pháp vì chúng sinh

Người thành tựu Tổng trì

Đủ biện tài không ngại.

Biết căn tánh lòng tin

Tùy thuận mọi quần mê

Chưa đủ tài giảng thuyết

Nhưng khi đạt Tổng trì.

Sẽ giảng truyền chánh pháp

Độ trăm ngàn chúng sinh

An lập pháp Đại thừa

Kiên trụ Tổng trì này.

Vô số na-do kiếp

Tán thán công đức đó

Không thể nào nói hết

Công dụng Tổng trì này.

Thiện nam! Đức Ly Cấu Quang nêu giảng Tổng trì này, có ba vạn hai ngàn Bồ-tát đạt Tổng trì. Bồ-tát Quang Thủ cũng đạt.

Thiện nam! Ông biết không, Bồ-tát Quang Thủ thời ấy nay chính là ông đây. Nhờ vậy Bồ-tát Tổng Giáo Vương hóa độ chúng sinh ở cõi ác, có thể thưa hỏi pháp nơi Như Lai, thông suốt câu nghĩa, không tâm do dự, trừ mọi nghi ngờ, giảng thuyết pháp mầu. Các ông hãy tự quán sát để thành tựu pháp Tổng trì này.

Phẩm 25: TUỆ NGHIỆP

Bấy gờ, Bồ-tát Trí Tích hỏi Đức Phật:

–Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát đạt được Tổng trì này, nhớ rõ các pháp, tạo lợi ích cho chúng sinh, tự tu các hạnh?

Phật nói:

–Thiện nam! Bồ-tát an trụ trí nơi căn bản, tạo nghiệp bằng tuệ sẽ đạt Tổng trì Bảo diệu, nhớ rõ pháp, tạo lợi ích cho chúng sinh.

Bồ-tát lại thưa:

–Xin Như Lai giảng rõ thế nào là trí căn bản, thế nào là tuệ nghiệp?

Phật nói:

–Hãy lắng nghe, suy xét kỹ! Như Lai sẽ nêu giảng. Thiện nam! Lắng nghe về nghĩa lý, tư duy nhớ kỹ là trí căn bản, giảng lại pháp đã nghe cho người là tuệ nghiệp; quán sát phân biệt là trí căn bản, khai ngộ chúng sinh là tuệ nghiệp; tùy thuận quán sát biết nguồn gốc là trí căn bản, tùy thời khai hóa chúng sinh là tuệ nghiệp; tu hạnh bình đẳng, không thiên lệch là trí căn bản, hành hạnh chân chánh không tà vạy là tuệ nghiệp; tâm không khởi, không chấp là trí căn bản, không khởi tâm nhưng thuyết giảng kinh điển là tuệ nghiệp; nhàn tịnh tư duy, tâm tịch tĩnh là trí căn bản, thân tâm an nhiên không tán loạn là tuệ nghiệp; tâm chuyên nhất, không khởi các việc là trí căn bản, biết đạo Nhất thừa không chống trái là tuệ nghiệp; chuyên tâm quán sát là trí căn bản, đạt giải thoát xua tan tăm tối là tuệ nghiệp; tuân hành ba môn giải thoát là trí căn bản, hiểu rõ việc quá khứ, vị lai, hiện tại là tuệ nghiệp; tin hiểu nghĩa đạo, không mê hoặc là trí căn bản, vượt mọi trở ngại là tuệ nghiệp; tâm mạnh mẽ không khiếp sợ là trí căn bản, thân tâm an định, không vội vàng là tuệ nghiệp; ý ung dung, không thô bạo là trí căn bản, tư duy rộng, nhớ biết rõ là tuệ nghiệp; biết khống chế kịp thời là trí căn bản, tâm thường định là tuệ nghiệp; tu thiền, hiểu pháp là trí căn bản, ý không chấp niệm là tuệ nghiệp; hành bốn Chánh cần, khiến từ bỏ mọi nguồn gốc là trí căn bản, thanh tịnh không nhơ uế, hiểu các pháp là tuệ nghiệp; tu bốn Thần túc đi lại nhẹ nhàng là trí căn bản, không hành nhưng thành tựu thần túc là tuệ nghiệp; tu tập năm căn, đạt tịch tĩnh là trí căn bản, phân biệt biết chỗ hướng đến của các căn là tuệ nghiệp; an trụ nơi năm lực không dao động là trí căn bản, hàng phục trần lao, không khởi dục là tuệ nghiệp; hiểu bảy phần giác, đạt nhẫn nhu thuận là trí căn bản, phân biệt các pháp, tự tại trước mọi pháp là tuệ nghiệp; tu tám chánh đạo, thông suốt không chướng ngại là trí căn bản, phân biệt, dẫn dục, đưa phi pháp về chánh pháp là tuệ nghiệp; hiểu rõ khổ tập tiến tu đạo pháp là trí căn bản, đạt diệt đế, tâm không cùng tận là tuệ nghiệp; tụng kinh hiểu nghĩa là trí căn bản, thông đạt kinh pháp phụng hành đúng pháp là tuệ nghiệp; nhớ kỹ pháp đã nghe là trí căn bản, hiểu nghĩa không trái lý là tuệ nghiệp; nghe tiếng nhưng không chấp là trí căn bản, thuận kinh, hiểu nghĩa là tuệ nghiệp; quán mọi vật đều vô thường là trí căn bản, biết các pháp không hành là tuệ nghiệp; quán mọi vật là khổ là trí căn bản, biết các pháp vốn rỗng lặng là tuệ nghiệp; hiểu các pháp không có ngã là trí căn bản, quán chúng sinh vốn thanh tịnh là tuệ nghiệp; không kinh sợ khi nghe pháp chân thật là trí căn bản, biết nguồn gốc của các pháp là tuệ nghiệp; quán Niết-bàn tịch tĩnh là trí căn bản, biết tất cả các pháp vốn tịch tĩnh là tuệ nghiệp; nghe kinh không nghi ngờ lo sợ là trí căn bản, hiểu nghĩa lý biết hướng về là tuệ nghiệp; suy xét pháp không chìm đắm là trí căn bản, đủ biện tài phân biệt các pháp là tuệ nghiệp; nghe mọi âm thanh nhưng không lo sợ là trí căn bản, tùy thời thông đạt là tuệ nghiệp; nghe biện tài của Phật nhưng không hoảng sợ là trí căn bản, giảng thuyết cho tất cả là tuệ nghiệp; hành pháp vì chúng sinh là trí căn bản, gia hộ chúng sinh bằng tâm là tuệ nghiệp; hành Từ bi vì mình và mọi loài là trí căn bản, đủ hai pháp không chấp trước, phát lòng Từ bi lớn là tuệ nghiệp; vui thích pháp là trí căn bản, không cao thấp chống trái là tuệ nghiệp; quán sát đoạn trừ ràng buộc nguy hại là trí căn bản, biết mọi hành động của mình là tuệ nghiệp; luôn niệm Phật là trí căn bản, biết Pháp thân nhưng không chấp là tuệ nghiệp; niệm kinh hiểu nghĩa là trí căn bản, phân biệt trừ dục là tuệ nghiệp; niệm chư Tăng, luôn cúng dường là trí căn bản, thành tựu vô vi, quán sát không trần dục là tuệ nghiệp; thường nghĩ đến việc bố thí, cứu giúp kẻ nghèo khốn là trí căn bản, bỏ trần dục, thuận ý đạo là tuệ nghiệp; thận trọng giữ giới là trí căn bản, làm nhưng không chấp, hiểu giới cấm là là tuệ nghiệp; thường niệm thiên, tỏ ngộ là trí căn bản, làm thanh tịnh các pháp từ trần dục là tuệ nghiệp; nghe, hiểu nghĩa là trí căn bản, không nhiễm thế tục là tuệ nghiệp; mọi việc làm đều chân thật không lỗi lầm là trí căn bản, hiểu rõ không tạo tác, không báo ứng là tuệ nghiệp; không cao ngạo là trí căn bản, thành tựu trí lớn là tuệ nghiệp; luôn tự thức tỉnh là trí căn bản, đủ cả hai việc là tuệ nghiệp; thọ trì tám vạn bốn ngàn kinh pháp là trí căn bản, phân biệt tám vạn bốn ngàn hạnh là tuệ nghiệp; tùy thời giảng pháp là trí căn bản, tùy cơ giảng kinh không trái là tuệ nghiệp; khai hóa chúng sinh vào trong đạo là trí căn bản, trọn trí lớn đủ phương tiện chỉ dạy chúng sinh, giúp chúng sinh không thoái chuyển là tuệ nghiệp; không lo sợ khi nguyện sinh trong năm cõi là trí căn bản, giáo hóa mọi loài khi thọ sinh là tuệ nghiệp; siêng năng tu tập thành tựu âm hưởng nhẫn là trí căn bản, luôn tu tập không vì thọ sinh là tuệ nghiệp; tự tùy thuận đạt nhẫn nhu thuận là trí căn bản, thành tựu pháp Nhẫn vô sinh là tuệ nghiệp; siêng năng tu tập đạt địa không thoái chuyển là trí căn bản, thành tựu địa A-duy-nhan là tuệ nghiệp; thành tựu hạnh nghiệp, an tọa nơi tòa Bồ-đề là trí căn bản, hiểu pháp trừ nghi, tỏ ngộ sự bình đẳng, phát tâm Bồ-đề vô thượng, tùy thuận thời cơ, thành tựu chánh giác là tuệ nghiệp.

Đức Phật nói kệ nhắc lại ý trên:

Nghe thọ các kinh pháp

Học hỏi không buông lung

Thanh tịnh tất cả chúng

Là học trí căn bản.

Giảng thuyết pháp đã nghe

Tâm từtruyền bá rộng

Bồ-tát thật thù thắng

Thành tựu tuệ nghiệp lớn.

Tư duy bằng ý sáng

Chính là trí căn bản

Phân biệt giảng các kinh

Là tuệ nghiệp lớn lao.

Thực hành như ý niệm

Chính là trí căn bản

Giảng thuyết cho mọi loài

Là tuệ nghiệp lớn lao.

Không để tâm sinh khởi

Chính là trí căn bản

Không chấp nơi tâm hành

Tuệ nghiệp lớn là đó.

Tịnh tu hạnh chân chánh

Chính là trí căn bản

Thuyết giảng hạnh đã tu

Tuệ nghiệp lớn là đó.

Tịch tĩnh chuyên hành đạo

Chính là trí căn bản

Thân tâm không chấp ngã

Tuệ nghiệp lớn là đó.

Lo sợ tập sinh tử

Chính là trí căn bản

Yêu thích đạo Nhất thừa

Đó tức là Tuệ nghiệp.

Thích quán pháp tịch tĩnh

Đó là trí căn bản

Tư duy việc giải thoát

Đó tức là Tuệ nghiệp.

Siêng tu ba giải thoát

Đó là trí căn bản

Chứng đắc Trí ba đạt

Ấy tức là Tuệ nghiệp.

Chuyên tập bốn Ý chỉ

Đó là Trí căn bản

Niệm không ý không ngã

Ấy tức là Tuệ nghiệp.

Bỏ ác làm việc lành

Đó là Trí căn bản

Gốc tịnh trừ pháp ấy

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Chuyên hành bốn Thần túc

Đó là trí căn bản

Không tham tập thần túc

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tin sâu pháp giải thoát

Đó là trí căn bản

Vượt tất cả trở ngại

Ấy tức là Tuệ nghiệp.

Siêng năng không ngừng nghỉ

Đó là trí căn bản

Thân ý đã dừng nghỉ

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Chí tỏ ngộ, nhàn tịnh

Đó là trí căn bản

Chẳng trụ tất cả xứ

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tự giác biết ý định

Đó là trí căn bản

Hành chánh thọ gốc tịnh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Khéo thực hành năm Căn

Đó là Trí căn bản

Biết các căn chúng sinh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Thực hành pháp năm Lực

Đó là Trí căn bản

Ân cần đạt Thánh tuệ

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Giác ý nhẫn nhu thuận

Đó là Trí căn bản

Hiểu rõ hết thảy pháp

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Siêng tu đạo tinh tấn

Đó là Trí căn bản

Trừ bỏ pháp, phi pháp

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Biết phương tiện trừ khổ

Đó là Trí căn bản

Nơi chứng không diệt tận

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tu tập tùy thuận đạo

Đó là Trí căn bản

Dẫn dắt theo nghĩa lý

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Nghe nhiều không chán ghét

Đó là Trí căn bản

Hành thuận nơi pháp yếu

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tìm hiểu rõ nghĩa lý

Đó là Trí căn bản

Phụng hành nơi Thánh đạt

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Không chấp vào thọ mạng

Đó là Trí căn bản

Chỗ niệm như giáo pháp

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Quán biết vật vô thường

Đó là Trí căn bản

Nơi ấy biết vô sinh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Hiểu các pháp là khổ

Đó là Trí căn bản

Các pháp thảy Vô vi

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tất cả pháp không ngã

Đó là Trí căn bản

Tánh ấy luôn thanh tịnh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tin Niết-bàn tịch tĩnh

Đó là Trí căn bản

Chúng sinh luôn diệt độ

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Quán sát rõ nghĩa lý

Đó là Trí căn bản

Biết rõ nghĩa phân biệt

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Vững tin vào kinh pháp

Đó là Trí căn bản

Thông đạt nơi king pháp

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Không lo sợ pháp nào

Đó là Trí căn bản

Hiểu rõ nẻo hướng về

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Đủ biện tài của Phật

Đó là Trí căn bản

Thấu tỏ tự nêu bày

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Hành hạnh thương chúng sinh

Đó là Trí căn bản

Đạt được từ không duyên

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Biết thương mình và người

Đó là Trí căn bản

Không tưởng chấp ta, người

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Luôn vui vẻ an lạc

Đó là Trí căn bản

Không nêu, không chỗ khởi

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Chẳng tạo nơi tham ái

Đó là Trí căn bản

Tâm không đạt hai nẻo

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Chuyên tâm niệm Thế Tôn

Đó là Trí căn bản

Nếu theo Pháp thân dạy

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tư duy các kinh pháp

Đó là Trí căn bản

Biết rõ pháp, Báo, Ứng

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Niệm công đức Thánh chúng

Đó là Trí căn bản

Nếu hiểu rõ Vô vi

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Thích hành hạnh bố thí

Đó là Trí căn bản

Ví xả bỏ mọi trần

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Thanh tịnh các giới cấm

Đó là Trí căn bản

Trụ nơi giới Vô lậu

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Niệm chư Thiên thần thông

Đó là Trí căn bản

Nếu niệm định lại định

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Nghe hiểu rõ nghĩa lý

Đó là Trí căn bản

Không cùng thế gian hành

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Siêng năng tạo nghiệp lành

Đó là Trí căn bản

Tạo nơi tạo không tạo

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Khiêm tốn, không cao ngạo

Đó là Trí căn bản

Chẳng cho mình có tuệ

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Tự thân luôn siêng năng

Đó là Trí căn bản

Vì chúng sinh tạo hành

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Thọ trì tạng pháp Phật

Đó là Trí căn bản

Thấu rõ hành chúng sinh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Vượt tất cả pháp ác

Đó là Trí căn bản

Quy chúng sinh ba xứ

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Bố thí vì Từ bi

Cùng tạo mọi lợi ích

Giáo hóa khiến lìa cấu

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Bình đẳng lợi tất cả

Xem như công đức Phật

Bậc Chánh sĩ như thế

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Sợ ấm, giới hiện có

Đó là trí căn bản.

Tư duy sinh nơi ấy

Đấy tức là tuệ nghiệp.

Chẳng sân đạt tuệ tận

Đó là Trí căn bản

Khởi tuệ không chốn sinh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Như đạt Nhẫn âm hưởng

Đó là Trí căn bản

Nẻo hành như chỗ niệm

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Đạt pháp Nhẫn nhu thuận

Đó là Trí căn bản

Chứng pháp Nhẫn vô sinh

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Trụ địa không thoái chuyển

Đó là Trí căn bản

Đạt địa A-duy-nhan

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

An tọa cội Bồ-đề

Đó là Trí căn bản

Đạt mọi tuệ thần thông

Đấy tức là Tuệ nghiệp.

Biết rõ gốc của trí

Đó chính là tâm đạo

Nương tựa vào tâm này

Làm mọi việc bằng tuệ.

Chân thật tu tâm đạo

Không hề bị dao động

Là việc làm bằng tuệ

Tùy thời làm mọi việc.

Thực hành đạo của Phật

Là nguồn gốc đạo tâm

Thần lực Phật là thế

Đủ biện tài phân biệt.

Trải qua vô số kiếp

Khen ngợi công đức này

Vẫn không thể nói hết

Hào quang, công đức Phật.

Chư Phật thời quá khứ

Hiện tại cũng như thế

Cùng chư Phật vị lai

Không thể nào tính biết.

Những ai muốn cúng dường

Đấng Tối Thắng Vô thượng

Tùy thuận hành tâm đạo

Thành tựu không buông lung.

Lúc Phật giảng pháp này các cõi Phật mười phương chấn động đủ sáu cách, pháp tòa Bảo Nghiêm cũng rung động. Bồ-tát Trí Tích bạch Phật:

–Thế Tôn! Vì sao cõi Phật nơi mười phương chấn động đủ sáu cách và pháp tòa trong hư không cũng rung động?

Phật nói:

–Thiện nam! Kinh này được chư Phật thời quá khứ, khen ngợi. Thời quá, khứ Bồ-tát đã từng thưa hỏi, Phật đáp nên có hiện tượng đó.

Phẩm 26: BỒ-TÁT TRÍ TÍCH

Lúc ấy, Bồ-tát Đãi Phân Biện Biệt thưa Phật:

–Thế Tôn! Vì sao Bồ-tát có tên là Trí Tích?

Phật nói:

–Thiện nam! Vô số kiếp ở thời quá khứ có Đức Phật hiệu Thủ Tịch, là Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, cõi nước tên Tinh cần, kiếp tên Ama-lặc. Cõi ấy an ổn, chúng sinh luôn được yên vui. Đức Thủ Tịch có bốn vạn hai ngàn đệ tử Bồ-tát, tám vạn bốn ngàn đệ tử Thanh văn, đều thuận hành giáo pháp, khiêm tốn, kính thuận. Đức Thủ Tịch với biện tài sẵn có, dựa vào các bình phương đẳng đưa ra trăm ức vấn nạn, bảo các Bồ-tát:

–Các vị! Ai có thể giải thích rõ trăm ức vấn nạn nầy?

Các Bồ-tát tuần tự thưa:

–Qua đêm nay sẽ giải đáp.

Có vị thì xin qua bảy đêm, vị thì xin nửa tháng, vị thì một tháng, suy xét sẽ giải đáp.

Lúc ấy, Bồ-tát Giác Ý thưa Phật:

–Thế Tôn! Xin chứng minh cho, con không rời tòa, không phải sửa lại y phục, không cần tư duy, lập tức giải rõ các vấn nạn ấy.

Bồ-tát liền gầm lên tiếng sư tử, chấn động cả tam thiên đại thiên cảnh giới, phóng ra ánh sáng chiếu soi các cõi, bảo tất cả Thiên thần như thần đất, Tứ Thiên vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Vô biên lạc thiên, Hóa tự tai thiên, trên đến Ma giới thiên, Phạm thiên, Phạm thân thiên, Phạm mãn, Phạm độ trước, Quang diệu, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Nghiêm tịnh, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Nan cập, Thiện kiến, Thiện thắng, Ly quả, Nhất thiện, Không tuệ, Thức tuệ, Bất dụng, Không tuệ, Hữu tưởng, Vô tưởng cùng tập hợp về. Vô số Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, vô số chúng sinh trong mười phương đều về nơi đó. Biết đại chúng đã tập hợp Bồ-tát Giác Ý dùng thần lực phước đức, sức dũng mãnh nơi Tổng trì, Biện tài, sức vô úy của mình và nương thần lực Phật, tuần tự giải thích rõ trăm ức vấn nạn mà không rời tòa, chuyển động lời lẽ rất lưu loát, làm cho người nghe tỏ ngộ. Lãnh hội pháp này, sáu vạn người phát tâm Bồ-đề vô thượng, tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh.

Đức Phật Thủ Tịch khen ngợi:

–Hay thay! Hay thay! Tiếng của Bồ-tát vang khắp tam thiên đại thiên cõi nước, tập hợp tất cả chư Thiên thần và chúng sinh. Vì giải thích rõ trăm ức vấn nạn nên Bồ-tát có tên là Trí Tích.

Thiện nam! Bồ-tát Giác Ý thời đó đâu phải người nào lạ chính là Bồ-tát Trí Tích này.

Phẩm 27: TÁN THÁN

Khi ấy, Bồ-tát Tổng Giáo Vương bạch Phật:

–Thật hy hữu! Thưa Thế Tôn! Chư Phật với oai lực thần diệu quyết định đạo Bồ-đề vô thượng, hiểu rõ mười hai pháp nhân duyên, thông đạt tất cả văn tự không thể nghĩ bàn. Hạnh Phật không ai sánh bằng, sáu tình không xâm nhập, kẻ chấp trước không thể hiểu nổi, Thanh văn, Duyên giác không thể làm được. Đó là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát biết tất cả pháp bình đẳng như pháp giới, chẳng khác hư không; không vọng tưởng, không chấp trước, không mong cầu; khác với chúng sinh; hiểu nhân duyên báo ứng, giảng thuyết các Ba-la-mật, đủ phương tiện, đạt tịch tĩnh, chứng thần thông, nhập pháp môn của Phật, không tạo tác, an định như hư không, không bè nhóm, không gì sánh kịp, bình đẳng trừ hai chấp như chư Phật, tu hạnh thanh tịnh, không chấp nơi văn tự, chỉ dẫn tất cả, giúp chúng tỏ ngộ, hiểu ngôn ngữ, không chấp chặt, phụng hành Tam bảo, giảng ba môn giải thoát, vượt ba cõi, thông ba pháp, tự tại, hiểu rõ pháp của chư Phật, đủ trí Phật tạo lợi ích cho mọi loài, được chư Phật khen ngợi.

Thế Tôn! Thiện nam, tín nữ nào tin chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại nên giảng trí tuệ vô lượng cho chúng để chúng tin, phát tâm Bồ-đề vô thượng, bảo hộ chánh pháp, chúng nghe kinh này, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết sẽ đạt vô lượng phước đức, hiểu kính Phật, đền ân Tam bảo.

Phật nói:

–Đúng thế! Đúng thế! Thiện nam! Với mắt Phật, ta biết phước đức của thiện nam, tín nữ cúng dường Phật mười phương bằng bảy báu không bằng phước đức của thiện tín nghe, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, thực hành kinh này.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ khen ngợi:

Ta dùng mắt Phật

Nhìn khắp tất cả

Cõi nước chư Phật

Người cúng dường Phật.

Vô số bảy báu

Phước đức lại ít

Người nghe kinh này

Phước đức nhiều hơn.

Vì là pháp khí

Chúng sinh nghe kinh

Vi diệu sâu xa

Chân chánh bậc nhất.

Thọ trì suy xét

Đọc tụng giảng thuyết

Công đức có được

Thật là tối thắng.

Thù thắng hơn trên

An trụ chánh pháp

Độ sinh bằng pháp

Không cầu cơm áo.

Vì thế cần tu

An trụ đúng pháp

Hiếu thuận Thế Tôn

Báo đền ân Phật.

Đức Thế Tôn lại hỏi đại chúng:

–Vị nào có thể bảo hộ chánh pháp vi diệu của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Sau khi ta diệt độ, truyền bá kinh này ở đời năm trược để chánh pháp trường tồn?

Nghe Phật hỏi, sáu vạn ức Bồ-tát cùng thưa:

Như Lai Thế Tôn

Chúng con xin nguyện

Bảo hộ chánh pháp

Khi Phật Niết-bàn.

Vô số ức kiếp

Chúng con lưu truyền

Giáo pháp chánh chân

Nơi đời vị lai.

Ngưỡng mong Như Lai

Thương xót gia hộ

Dùng sức oai thần

Giúp cho kinh này.

Được truyền rộng rãi

Ở đời mạt pháp

Chúng sinh hiện giờ

Đều tôn kính Phật.

Đầy đủ căn lành

Gieo trồng mầm đức

Tích lũy phước lành

Mong được nghe kinh.

Đức Thế Tôn nói:

Lời Thế Tôn thành thật

An trụ pháp Chân đế

Giảng diễn kinh pháp này

Bằng lòng tin chân thật.

Với tâm Bi vô lượng

Và tâm Từ vô biên

Thương xót mọi quần mê

Phật giảng kinh pháp này.

Thành tựu các công đức

Vượt trên các Hiền thánh

Trọn vẹn tất cả hạnh

Thuyết giảng kinh pháp này.

Hàng phục mọi quân ma

Trừ diệt các ngoại đạo

Đoạn trừ chấp sai lệch

Phật thuyết giảng kinh này.

Đế Thích, bốn Thiên vương

Phạm thiên, các trời khác

Trời, Rồng, Càn-thát-bà

Phật thương, giảng kinh này.

Từ dưới đất trên không

Chư Thiên và Quỷ thần

Đều nhờ oai thần Phật

Sẽ phụng trì kinh này.

Tu tập bốn Phạm hạnh

Trang nghiêm bằng bốn Đế

Bảo hộ tất cả cõi

Bằng kinh pháp vi diệu.

Hư không không hình sắc

Nhưng có thể hiện sắc

Kinh pháp của chư Phật

Không thể nào di chuyển.

Lúc đó, bốn Thiên vương đồng thanh thưa Phật:

Chúng con tin phụng kinh

Thần lực Phật gia hộ

Con cháu và quyến thuộc

Đều xin bảo hộ kinh.

Người thọ trì kinh này

Siêng năng tu hành đạo

Chúng con nguyện bảo vệ

Cung cấp mọi vật dụng.

Đế Thích thưa Phật:

Vì đền ân Thế Tôn

Con nguyện bảo hộ pháp

Kinh vi diệu sâu xa

Thực hành sẽ thành Phật.

Vì kính tin chư Phật

Con nguyện bảo hộ kinh

Giữ gìn kinh điển này

Thọ trì pháp chân chánh.

Thiên vương Phạm Tam Bát thưa:

Không buông lung phóng túng

Vượt tất cả các thừa

Đều là nhờ kinh này

Pháp thù diệu thâm áo.

Nguyện bỏ hoan lạc trời

Bảo hộ kinh pháp này

Nơi nào giảng kinh pháp

Xin đến để nghe học.

Thiên vương Đâu-suất thưa:

Bồ-tát cõi Đâu-suất

Một đời sẽ thành Phật

Khi thọ sinh vào đời

Phụng trì giảng kinh này.

Thế Tôn con xin nguyện

Bỏ diệu lạc cõi trời

Vào cõi Diêm-phù-đề

Để nghe học kinh này

Đạo sư Ma Tử thưa:

Đã đoạn hết nghiệp ma

Không tổn hại chánh pháp

Ai thọ trì kinh này

Đọc tụng đúng nghi thức.

Con nguyện xin bảo hộ

Kinh pháp của Như Lai

Giúp người ấy siêng năng

Trọn vẹn, không thiếu sót.

Ma Ba-tuần thưa:

Với tất cả chúng sinh

Con sẽ không não loạn

Ai thọ trì kinh này

Diệt trừ mọi dục trần.

Ma quân không tổn hại

Con xin nguyện bảo hộ

Người giảng thuyết kinh này

Chánh pháp của Như Lai.

Thiên tử Tu Thâm thưa:

Chánh pháp của Thế Tôn

Nêu rõ trong kinh này

Ai phụng trì kinh ấy

Là tôn phụng chư Phật.

Con nguyện vì chư Thiên

Khen ngợi kinh pháp này

Khuyến khích phát tâm đạo

Phụng hành như đã nghe.

Bồ-tát Di-lặc thưa:

Đầy đủ chí đạo lớn

Từ tâm không phụ thuộc

Bảo hộ tất cả pháp

Tự nguyện hành bố thí.

Con ở cõi Đâu-suất

Chỗ kiến lập của Phật

Kinh chánh tượng như thế

Sẽ khiến được truyền bá.

Tôn giả Đại Ca-diếp thưa:

Chúng con trí kém cỏi

Học pháp của Thanh văn

Xin tùy năng lực mình

Thọ trì pháp của Phật.

Ai thọ trì kinh này

Con xin đến bảo hộ

Ai thuyết giảng kinh này

Con xin đến tán thán.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

Giáo pháp như hư không

Như Lai đã giảng dạy

Con xin nguyện bảo hộ

Phụng kính kinh pháp này.

Nếu có ai thọ trì

Kinh pháp vi diệu ấy

Sẽ ở đời vị lai

Bảo hộ tất cả chúng.

Tôn giả Mục-kiền-liên thưa:

Thế Tôn Đấng Tối Thượng

Thanh tịnh các chúng sinh

Thọ trì kinh điển này

Quán sát và phụng hành.

Trải trăm ngàn ức kiếp

Không đọa vào cõi ác

Được chư Phật thọ ký

Kế thừa pháp Như Lai.

Tôn giả A-nan thưa:

Con hầu bên cạnh Phật

Nghe vô số kinh pháp

Nhưng chưa từng được nghe

Kinh pháp vi diệu này.

Nay con được nghe học

Phật tự thân giảng dạy

Nguyện lưu truyền kinh này

Để cầu đạo Vô thượng.

Nghe vậy, Đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ-tát, Thanh văn, Đế thích, Phạm thiên, chư Thiên, Rồng, Thần:

–Lành thay, lành thay! Các thiện tín! Các ông có thể bảo hộ, lưu truyền kinh pháp ấy. Một lần nữa Như Lai phó chúc kinh này cho các ông. Chúng sinh nào học pháp Đại thừa nhưng chưa đạt pháp nhẫn, nếu nghe, thọ trì, đọc tụng kinh này sẽ được gặp Phật, không bao lâu sẽ đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thanh văn thọ trì kinh này sẽ được ở trong hội chúng đầu tiên nơi Đức Phật Di-lặc. Duyên giác thọ trì kinh này thì dù là thời không Phật, vẫn thành tựu đạo Duyên giác. Phật giảng pháp này, có vô số chúng sinh phát tâm Bồ-đề vô thượng, vô số Bồ-tát đạt địa không thoái chuyển, vô lượng Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh, vô số cõi nước chấn động đủ sáu cách, ánh sáng chiếu soi, hoa trời tự nhiên rải xuống cúng Phật. Các Bồ-tát đến từ mười phương đều tung rải hoa báu cúng dường Phật, phụng trì kinh này, nêu rõ công đức, thưa:

–Nhờ công đức vô lượng nên chúng con được đến đây, nghe kinh pháp nầy, chúng con nguyện làm mọi việc để Đức Thích-ca trụ mãi ở đời và kinh này được lưu truyền khắp cõi Diêm-phù-đề. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ nào thọ trì kinh này sẽ được bảo hộ, sẽ sống lâu, tạo lợi ích cho mọi loài.

Phẩm 28: PHÓ CHÚC

Bấy giờ, Bồ-tát Tổng Giáo Vương bạch Phật:

–Thật hy hữu! Thưa Thế Tôn! Như Lai đã phân biệt, nêu giải rõ kinh vi diệu này. Bồ-tát phụng hành, hàng phục diệt trừ các thứ ma, ngoại đạo, tùy thời giảng dạy, lợi lạc quần sinh, làm đủ mọi việc, đạt công đức vô lượng của Phật, hiển hiện đạo lớn. Thế Tôn!

Kinh này tên là gì, làm sao thọ trì?

Phật nói:

–Kinh này tên Như Lai Đại Bi, nên phụng hành như vậy, lời Phật dạy không dối.

Nghe Phật giảng thế, Bồ-tát Tổng Giáo Vương, mười phương Bồ-tát, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, trời, người đều hoan hỷ tin thọ, phụng hành.

KINH ĐẠI BI

 

 

MỤC-LỤC

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded /on 2020-09-06

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0