Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín (Phần Sau) C Quyển 76-80
---- Hán bộ Quyển thứ bảy mươi sáu ----
Thiện Tài Đồng Tử đảnh lễ chân nàng Thích Ca Cù Ba, Hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ mà đi.
Thiện Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma Gia Phu Nhơn, tức thời chứng được trí quán phật cảnh giới.
Thiện tài tự nghỉ rằng : Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian an trụ nơi vô sở trụ, siêu quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước, biết đạo vô ngại, đủ pháp thân thanh tịnh, dùng nghiệp như huyễn ma hiện hóa thân, dùng trí như huyễn mà quán thế gian, dùng nguyện như huyễn mà gìn giữ thân Phật. Theo thân ý thân, không thân sanh diệt, không thân lai khứ, chẳng phải thân hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, có bao nhiêu tướng đều là thân một tướng thân rời hai bên, thân không chỗ tựa nương, thân vô cùng tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt. Biết thân như mộng, như tượng trong gương. Thân như tịnh nhựt, thân hóa hiện khắp mười phương. Thân ở tam thế không đổi khác. Thân chẳng phải thân tâm, dường như hư không chỗ đi vô ngại siêu thế gian nhãn, chỉ tịnh nhãn của Phổ Hiền mới thấy được.
Hạng người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính thờ cúng dường, để được cùng ở hầu quán sát dung mạo, nghe tiếng nói, suy nghỉ lời dạy và nhận lãnh.
Bấy giờ có Chủ Thành thần tên là Bửu Nhãn, quyến thuộc vây quang hiện thân trên không trung, tay cầm những bửu hoa nhiều màu rải trên mình Thiện-Tài mà bảo rằng :
Nầy Thiện nam tử ! Phải giữ gìn tâm thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh giới.
Phải trang nghiêm tâm thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập lực.
Phải tịnh trị tâm thành, nghĩa là dứt hẳn bỏn sẻn, ganh ghét, dua bợ, phỉnh dối.
Phải thanh lương tâm thành, nghĩa là tư duy thiệt tánh của tất cả pháp.
Phải tăng trưởng tâm thành, nghĩa là làm xong tất cả pháp trợ đạo.
Phải nghiêm sức tâm thành, nghĩa là tạo lập cung điện thiền định giải thoát.
Phải chiếu diệu tâm thành, nghĩa là vào khắp tất cả Phật đạo tràng nghe lãnh pháp Bát Nhã Ba la mật.
Phải tăng-ích tâm thành, nghĩa là nhiếp khắp tất cả Phật phương tiện đạo.
Phải kiên cố tâm thành, nghĩa là hằng siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền.
Phải phòng hộ tâm thành, nghĩa là thường chuyên ngăn ngừa ác hữu và ma quân.
phải rỗng suốt tâm thành, nghĩa là khai dẫn tất cả ánh sáng phật trí.
Phải khéo bồi bổ tâm thành, nghĩa là nghe lãnh tất cả phật-pháp.
Phải phò trợ tâm thành, nghĩa là thâm-tín tất cả phật công-đức hải.
Phải quảng đại tâm thành, nghĩa là đại từ đến khắp tất cả thế gian.
Phải khéo che đậy tâm thành, nghĩa là tích tập những thiện pháp để đậy trên tâm.
Phải rộng rãi tâm thành, nghĩa là đại bi thương xót tất cả chúng sanh.
Phải mở cửa tâm thành, nghĩa là đem tất cả sở hữu tùy nghi bố thí giúp đỡ.
Phải giữ kín tâm thành, nghĩa là phòng những ác dục chẳng cho vào.
Phải nghiêm túc tâm thành, nghĩa là đuổi những pháp ác chẳng cho ở chung.
Phải quyết định tâm thành, nghĩa là tích tập tất cả pháp trợ đạo hằng kgông thối chuyển.
Phải an lập tâm thành, nghĩa là chánh niệm cảnh giới của tam thế tất cả các Như Lai.
Phải sáng bóng tâm thành, nghĩa là thông suốt tất cả những pháp môn, những duyên khởi trong khế kinh của chư Phật đã tuyên thuyết.
Phải bộ phận tâm thành, nghĩa là hiểu thị khắp tất cả chúng sanh cho họ thấy đạo nhất thiết trí.
Phải trụ trì tâm thành, nghĩa là phát những đại nguyện hải của tất cả tam thế chư Như Lai.
Phải phú quý tâm thành, nghĩa là chứa nhóm tất cả phước đức lớn cùng khắp pháp giới.
Phải làm cho tâm thành sáng rõ, nghĩa là biết khắp những pháp căn dục của chúng sanh.
Phải làm cho tâm thành tự tại, nghĩa là nhiếp khắp tất cả thập phương pháp giới.
Phải làm cho tâm thành thanh tịnh, nghĩa là chánh niệm tất cả chư Phật Như Lai.
Phải biết tự tánh của tâm-thành, nghĩa là tất cả pháp đều không tự-tánh.
Phải biết tâm thành như huyễn, nghĩa là dùng nhất thiết trí biết rõ những pháp tánh.
Nầy Thiện nam tử ! Đại bồ Tát nếu có thể tịnh tu tâm thành như vậy thời có thể tích tập tất cả thiện pháp.
Tại sao vậy ?
Vì trừ bỏ tất cả những chướng nạn : Những là chướng thấy Phật, chướng nghe pháp, chướng cúng dường Như Lai, chướng nhiếp chúng sanh, chướng tịnh phật độ.
Nầy Thiện nam tử ! Đại Bồ-Tát do lìa những chướng nạn như vậy, nếu phát tâm mong cầu thiện trí thức, chẳng cần dùng công lực, bèn được thấy. Nhẫn đến rốt ráo tất sẽ thành Phật.
Bấy giờ có Thân Chúng Thần tên là Liên Hoa Pháp Đức và Diệu Hoa Quang Minh vô lượng chư thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo tràng dừng ở không trung trước mặt Thiện Tài dùng diệu âm thanh ca ngợi.
Ma Gia phu nhơn, từ bông tai phóng lưới quang minh vô lượng sắc tướng chiếu khắp vô biên thế giới mười phương, cho Thiện Tài thấy tất cả chư Phật.
Lưới quang minh đó hữu nhiễu thế gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh đầu Thiện Tài và vào khắp lỗ lông trên thân Thiện Tài.
Liền đó Thiện Tài chứng được tịnh quang minh nhãn, vì lía hẳn tất cả tối ngu si, được ly ế nhãn, vì có thể rõ tánh của tất cả chúng sanh. Được ly cấu nhãn, vì có thể quán tất cả môn pháp tánh. Được tịnh huệ nhãn, vì có thể quán tánh tất cả phật độ. Được tỳ lô giá na nhãn, vì thấy pháp thân Phật. Được phổ quang minh nhãn, vì thấy thân Phật bình đẳng bất tư nghì. Được vô ngại quang nhãn, vì quán sát tất cả sát hải thành hoại. Được phổ chiếu nhãn, vì thấy thập phương Phật khởi đại phương tiện chuyển chánh pháp luân. Được phổ cảnh giới nhãn, vì thấy vô lượng Phật dùng sức tự tại điều phục chúng sanh. Được phổ kiến nhãn, vì thấy tất cả cõi chư Phật xuất thế.
Bấy giờ có La Sát Quỷ Vương thủ hộ pháp đường của Bồ Tát, tên là Thiện Nhãn, cùng quyến thuột một vạn La Sát câu hội, ở không trung dùng những hoa đẹp rải trên mình Thiện Tài mà nói rằng:
Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát thành tụ mười pháp thời được thân cận chư thiện tri thức.
Đây là mười pháp :
Tâm thanh tịnh rời những dua bợ phỉnh dối.
Đại bi bình đẳng nhiếp khắp chúng sanh, biết các chúng sanh không có thiệt.
Xu hướng nhất thiết trí tâm không thối chuyển.
Dùng sức tín giải vào khắp tất cả phật đạo tràng.
Được tịnh huệ nhãn rõ các pháp tánh.
Đại từ bình đẳng che chở khắp chúng sanh.
Dùng trí quang minh chiếu rỗng những vọng cảnh.
Dùng mưa cam lộ xối sanh tử nóng.
Dùng mắt quảng đại soi suốt các pháp.
Tâm thường tùy thuận chư thiện tri thức.
Lại nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát thành tựu mười môn tam muội thời thường hiện thấy chư thiện tri thức.
Đây là mười môn tam muội :
Thanh tịnh luân pháp không tam muội.
Quán sát thập phương hải tam muội.
Nơi tất cả cảnh giới chẳng rời bỏ chẳng tổn giảm tam muội.
Thấy khắp tất cả Phật xuất thế tam muội.
Nhóm tất cả tạng công đức tam muội.
Tâm hằng chẳng bỏ thiện tri thức tam muội.
Thường thấy tất cả thiện tri thức sanh phật công đức tam muội.
Thường chẳng rời tất cả thiện tri thức tam muội.
Thường cúng dường tất cả thiện tri thức tam muội.
Thường không lỗi lầm ở chỗ tất cả thiện tri thức tam muội.
Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát thành tựu mười môn tam muội nầy thời thường được thân cận chư thiện tri thức. Lại được môn tam muội thiện tri thức chuyển tất cả phật pháp luân, được môn tam muội nầy rồi thời đều biết chư Phật thể tánh bình đẳng, gặp thiện tri thức mọi nơi.
Thiện Tài ngước nhìn không trung mà thưa rằng :
Lành thay, lành thay ! Ngài vì thương xót nhiếp thọ tôi mà phương tiện dạy cho tôi pháp thấy thiện tri thức.
Xin Ngài vì tôi mà chỉ bảo : Thế nào đến chỗ thiện tri thức ? tìm thiện tri thức ở chỗ nào ?
La sát Vương nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ngươi nên đảnh lễ khắp mười phương để cầu thiện tri thức. Nên chánh niệm tư duy tất cả cảnh giới để cầu thiện tri thức. Nên dũng mãnh tự tại du hành khắp mười phương để cầu thiện tri thức. Nên quán thân quán tâm như mộng như ảnh để cầu thiện tri thức.
Thiện Tài y lời làm theo, tức thời hấy đại bửu liên hoa từ đất vọt lên : cộng bằng kim cang, diệu bửu làm tạng, ma ni làm cánh, quang minh bửu vương làm đài, hương báu nhiều màu làm tua, vô số lưới báu giăng che phía trên.
Trên đài sen báu ấy có lầu các đẹp lạ tên là Phổ Nạp Thập Phương Pháp Giới Tạng trang nghiêm.
Nền bằng kim cang, ngàn cột ngay hàng đều bằng ma ni bửu. Vách bằng vàng Diêm Phù Đàn. Bốn mặt thòng những chuỗi ngọc. Thềm bực lan can trang nghiêm giáp vòng.
Trong lầu các có tòa như ý bửu liên hoa nghiêm sức với những châu báu, bửu lan bửu y xen lẫn, bửu trướng bửu-võng che phía trên. Những phan lụa báu thòng rủ bốn phía. Gió nhẹ thổi lai phóng ánh sáng phát âm vang. Trong tràng bửu-hoa tuôn những hoa đẹp. Trong lục lạc báu phát âm thanh tốt. Trong cửa báu thòng những chuỗi ngọc. Trong thân ma ni chảy nước thơm. Trong miệng tượng bửu xuất hiện lưới liên hoa. Trong miệng bửu sư tử thổ mây diệu hương. Bửu luân phạm hình phát tiếng vui dạ linh kim cang bửu phát tiếng Bồ tát đại nguyện. Trong tràng bửu nguyệt xuất hiện hình phật hoá. Tịnh tạng bửu-vương hiện tam thế Phật thứ đệ thọ sanh. Nhựt tạng ma ni phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả quốc độ mười phương. Ma ni bửu-vương phóng quang minh viên mãn của tất cả chư Phật. Tỳ Lô Giá Na ma ni bửu vương nổi mây đồ cúng để dâng hiến tất cả chư phật Như-Lai. Như ý châu vương niệm niệm thị hiện phổ hiền thần biến sung mãn pháp giới. Tu di bửu vương xuất hiện thiên cung điện, trong đây chư thiên nữ dùng diệu âm ca tụng công đức vi diệu bất tư nghì của đức Như Lai.
Xung quanh bửu tòa nầy lại có vô lượng bửu tòa. Ma Gia Phu Nhơn hiện tịnh sắc thân ngồi trên đại bửu tòa ấy : Những là sắc thân siêu tam giới, vì đã thoát tất cả loài hữu lậu.
Sắc thân tùy tâm sở thích, vì với tất cả thế gian không chấp trước.
Sắc thân cùng khắp, vì bằng số tất cả chúng sanh.
Sắc thân không gì sánh bằng. Vì làm cho tất cả chúng sanh diệt trừ kiến chấp điên đảo.
Sắc thân vô lượng thứ, vì tuy tâm của chúng sanh mà thị hiện.
Sắc thân vô biên tướng, vì hiện khắp những hình tướng.
Sắc thân đối hiện khắp nơi, vì dùng đại tự tại để thị hiện.
Sắc thân giáp hóa tất cả, vì tùy nghi mà thị hiện.
Sắc thân hằng thị hiện, vì tận chúng sanh giới mà vẫn vô tận.
Sắc thân vô khứ, vì nơi tất cả loài vẫn không diệt.
Sắc thân vô lai, vì nơi tất cả thế gian vẫn không sanh.
Sắc thân bất sanh, vì không sanh khởi.
Sắc thân bất diệt, vì rời ngữ ngôn.
Sắc thân chẳng phải thiệt, vì được như thiệt.
Sắc thân chẳng phải hư, vì tùy thế gian mà hiện.
Sắc thân vô-động, vì lìa hẳn sanh diệt.
Sắc thân bất hoại, vì pháp tánh bất hoại.
Sắc thân vô-tướng, vì dứt đường ngôn ngữ.
Sắc-thân một tướng, vì lấy vô-tướng thành tướng.
Sắc thân như tượng, vì tùy tâm ứng hiện.
Sắc thân như huyễn, vì huyễn trí sanh ra.
Sắc thân như diệm, vì chỉ do tưởng ma còn.
Sắc thân như ảnh, vì tùy nguyện hiện sanh.
Sắc thân như mộng, vì tùy tâm mà hiện.
Sắc thân pháp giới, vì tánh tịnh như hư không.
Sắc thân đại bi, vì thường cứu hộ chúng sanh.
Sắc thân vô ngại, vì niệm niệm cùng khắp pháp giới.
Sắc thân vô biên, vì tịnh khắp tất ca chúng sanh.
Sắc thân vô lượng, vì siêu xuất tất cả ngữ ngôn.
Sắc thân vô trụ, vì nguyện độ tất cả thế gian.
Sắc thân vô xứ, vì hằng hóa độ chúng-sanh không thôi dứt.
Sắc thân vô sanh, vì huyễn nguyện làm thành.
Sắc thân vô thắng, vì siêu các thế gian.
Sắc thân như thật, vì định tâm hiện ra.
Sắc thân chẳng sanh, vì tùy nghiệp của chúng sanh mà xuất hiện.
Sắc thân châu như ý, vì khắp thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng sanh.
Sắc thân vô phân biệt, vì chỉ tùy theo chúng sanh phân biệt mà khởi.
Sắc thân rời phân biệt, vì tất cả chúng sanh chẳng biết được.
Sắc thân vô tận, vì tận sanh tử tế của các chúng sanh.
Sắc thân thanh tịnh, vì đồng vô phân biệt với Như Lai.
Thân như vậy chẳng phải sắc, vì bao nhiêu sắc tướng như ảnh tượng cả.
Chẳng phải thọ, vì đã diệt hẳn khổ thọ của thế gian.
Chẳng phải tưởng, vì chỉ tùy theo chúng sanh tưởng mà hiện.
Chẳng phải hành, vì nương theo nghiệp như huyễn mà thành tựu.
Chẳng phải thức, vì là nguyện trí không vô tánh của Bồ Tát, vì ngữ ngôn của tất cả chúng sanh đềy dứt, vì đã thành tựu thân tịch diệt.
Bấy giờ Thiện Tài lại thấy Ma Gia Phu Nhơn tùy theo tâm sở thích của các chúng sanh mà hiện sắc thân siêu quá tất cả thế gian.
Những là : Hoặc hiện thân siêu quá thiên nữ nơi trời Tha Hóa Tự Tại, nhẫn đến siêu quá thiên nữ nơi trời Tứ Thiên Vương.
Hoặc hiện thân siêu quá Long Nữ, nhẫn đến siêu quá Nhơn Nữ.
Hiện vô lượng sắc thân như vậy để lợi ích chúng sanh, nhóm họp pháp trợ đạo nhất thiết trí hành bình đẳng đàn Ba la mật, đại bi che khắp tất cả thế gian, xuất sanh vô lượng công đức của Như Lai, tu tập tăng trưởng tâm nhất thiết trí, quán sát tư duy thật tánh của các pháp, được thâm nhẫn, đủ định môn, an trụ cảnh giới tam muội bình đẳng, được Như Lai định, viên mãn quang minh,tiêu cạn biển lớn phiền não của chúng sanh, tâm thường chánh định chưa từng động loạn, hằng chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, khéo biết rõ tất cả phật pháp, hằng dùng trí huệ quán khắp thật tướng, thấy chư Như Lai không lòng nhàm, biết tam thế Phật xuất thế tam muội, thấy Phật thường hiện tiền, thấu rõ Như Lai xuất hiện nơi đời, vô lượng vô số những đạo thanh tịnh, đi nơi cảnh giới hư không của Phật, nhiếp khắp chúng sanh đều theo tâm họ để giáo hóa thành tựu, nhập Phật vô lượng thanh tịnh pháp thân, thành tựu đại nguyện nghiêm tịnh Phật độ, rốt ráo điều phục tất cả chúng sanh, tâm hằng vào khắp cảnh giới của chư Phật, xuất sanh Bồ tát tự tại thần lực, đã được pháp thân thanh tịnh vô nhiễm mà hằng thị hiện vô lượng sắc thân xô dẹp tất cả ma lực thành sức đại thiện căn, xuất sanh sức chánh pháp, đầy đủ phật lực, được sức tự tại của chư Bồ Tát, mau tăng trưởng sức nhất thiết trí, được phật trí quang chiếu khắp tất cả, biết hết tâm tánh giải dục sai biệt của vô lượng chúng sanh, thân cùng khắp mười phương cõi, biết rõ tướng thành hoại của các cõi, dùng quảng đại nhãn thấy thập phương hải, dùng châu biến trí biết tam thế hải, thân khắp thừa sự tất cả phật hải, tâm hằng nạp thọ tất cả pháp hải, tu tập tất cả công đức của Như Lai, xuất sanh tất cả trí huệ của Bồ Tát, thường thích quán sát tất cả Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến thành tựu đạo Bồ Tát, thường siêng thủ hộ tất cả chúng sanh, thường thích tán dương công đức của chư Phật, nguyện làm mẹ của tất cả Bồ Tát.
Thiện Tài thấy Ma Gia Phu Nhơn hiện diêm phù đề vi trần số môn phương tiện như vậy. Đúng như số thân của Ma Gia Phu Nhơn đã hiện, Thiện Tài cũng tự hiện bao nhiêu thân ở trước tất cả Ma Gia Phu Nhơn mà cung kính lễ bái.
Tức thời Thiện Tài chứng được vô-lượng vô số môn tam muội, phân biệt quán sát tu hành chứng nhập.
Sau khi xuất định, Thiện Tài hữu nhiễu Phu Nhơn và quyến thuộc của Phu Nhơn, đứng chấp tay cung kính thưa rằng :
Bạch Đại Thánh ! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy tôi phát tâm vô thượng Bồ đề, cầu thiện tri thức để thân cận cúng dường.
Ở chỗ mỗi vị Thiện tri thức tôi đều đến kính thờ không bỏ luống, lần lượt đến đây. Xin Đại-Tháth vì tôi mà dạy bảo Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh mà được thành-tựu ?
Ma Gia Phu Nhơn nói :
Nầy Thiện nam tử ! ta đã thành tựu môn giải thoát bồ tát đại nguyện trí huyễn, do đây ta thường làm mẹ của Bồ Tát.
Nầy Thiện nam tử ! như ta ở tại cung vua Tịnh Phạn nơi thành Ca Tỳ La nầy, từ hông bên hữu sanh Thái Tử tất đạt hiện bất tư nghì thần biến tự tại.
Như vậy nhẫn đến tận thế giới hải nầy tất cả Tỳ Lô Giá Na Như Lai đều vào thân ta mà thị hiện đản sanh tự tại thần biến.
Lại nầy Thiện nam tử ! lúc ta ở cung vua Tịnh Phạn, lúc Bồ Tát sắp hạ sanh, ta thấy thân của Bồ Tát mỗi mỗi lỗ lông đều phóng quang minh tên là Nhất Thiết Như Lai Thọ Sanh Công Đức Luân. Mỗi lỗ lông đều hiện bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số Bồ Tát thọ sanh trang nghiêm. Những quang minh đó thảy đều chiếu khắp tất cả thế giới, rồi nhập vào đảnh của ta và khắp các chân lông.
Lại trong quang-minh ấy hiện khắp tất cả danh hiệu của Bồ Tát, cùng thọ sanh, thần biến, cung điện, quyến thuộc, ngũ dục tự vui của Bồ Tát.
Trong quang minh lại thấy Bồ Tát xuất gia, đến đạo tràng thành Đẳng Chánh Giác, ngồi tòa sư tử, Bồ Tát vây quanh, các vua chúa cúng dường, vì đại chúng mà chuyển pháp luân.
Lại thấy đức Như Lai thuở xưa lúc tu hành Bồ tát đạo, cung kính cúng dường chư Phật, phát tâm Bồ đề, nghiêm tịnh phật độ, niệm niệm thị hiện vô lượng hóa thân khắp thập phương thế giới nhẫn đến rốt sau nhập niết bàn. Tất cả những sự như vậy đều thấy rõ cả.
Nầy Thiện nam tử ! Lúc diệu quang minh ấy vào thân của ta, hình lượng của thân ta dầu chẳng hơn trước, nhưng thật ra thời đã siêu thế gian.
Tại sao vậy ?
Vì lúc đó thân của ta lượng đồng hư không, đều có thể dung thọ những cung điện trang nghiêm thập phương của Bồ Tát thọ sanh.
Lúc Bồ Tát từ cung trời Đâu Suất sắp giáng thần, có mười phật sát vi trần số Bồ Tát đồng nguyện, đồng hạnh, đồng thiện căn,đồng trang nghiêm, đồng giải thoát, đồng trí huệ, trí lực, pháp thân, sắc thân, nhẫn đến Phổ hiền thần thông hạnh nguyện thảy đều đồng với Bồ Tát. Vi trần số Bồ Tát nầy cùng vây quanh.
Lại có tám vạn Long Vương và tất cả thế chủ thừa cung điện của mình đều đến cúng dường.
Bấy giờ Bồ Tát dùng sức thần thông cùng chư Bồ Tát quyến thuộc hiện khắp tất cả Đâu Suốt Thiên Cung. Mỗi mỗi thiên cung đều hiện hình tượng thọ sanh trong tất cả Diêm Phù Đề ở thập phương thế giới, phương tiện giáo hóa vô lượng chúng sanh, khiến chư Bồ Tát rời giải đãi, không chấp trước.
Lại dùng thần lực phóng đại quang minh chiếu khắp thế gian phá những tối tăm diệt những khổ não làm cho các chúng sanh đều biết những hành nghiệp đã có từ đời trước, hầu thoát hẳn ác đạo.
Lại vì cứu hộ tất cả chúng sanh mà hiện ra trước họ, để hiện những thần biến.
Bồ Tát đã hiện những sự kỳ đặc như vậy rồi cùng quyến-thuộc đến nhập vào thân của ta.
Chư Bồ Tát ấy ở trong bụng ta du hành tự tại hoặc dùng Đại Thiên thế giới làm một bước. Nhẫn đến hoặc dùng bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thế giới làm một bước.
Lại trong mỗi niệm, chúng hội Bồ Tát ở chỗ chư Phật Như Lai nơi bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả thế giới mười phương, cùng dục giới sắc giới chư Thiên Vương chư Phạm Vương vì muốn thấy thần biến của Bồ Tát ở trong thai mẹ để cung kính cúng dường nghe lãnh chánh pháp nên đều đến vào thân của ta.
Dầu trong bụng của ta đều có thể dung thọ tất cả chúng hội như vậy, mà thân ta vẫn không lớn thêm, cũng chẳng chật hẹp.
Chư Bồ Tát và chúng hội đều tự thấy mình ở đạo tràng thanh tịnh nghiêm sức.
Nầy Thiện nam tử ! Như trong Diêm Phù Đề nầy Bồ Tát thọ sanh, ta làm mẹ, trong tất cả trăm ức Diêm Phù Đề khắp Đại Thiên thế giới cũng như vậy nhưng thân của ta đây bổn lai không hai, chẳng phải ở một xứ, chẳng phải ở nhiều xứ.
Tại sao vậy ?
Vì ta tu môn giải thoát bồ tát đại nguyện trí huyễn trang nghiêm.
Nầy Thiện nam tử ! như đức Thế Tôn hiện nay, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu chư Phật thuở xưa ta cũng làm mẹ như vậy.
Nầy Thiện nam tử ! thuở xưa ta từng là thần ao sen, bấy giờ có Bồ Tát bỗng nhiên hóa sanh nơi Liên Hoa Tạng, ta liền bồng ẵm săn sóc nuôi nấng. Thế gian gọi ta là mẹ của Bồ Tát.
Lại thuở xưa, ta từng làm thần Bồ Đề Tràng. Bấy giờ có Bồ Tát bỗng nhiên hóa sanh trong lòng của ta. Người đời ấy cũng gọi ta là mẹ của Bồ Tát.
Nầy Thiện nam tử ! có vô lượng tối hậu Bồ Tát phương tiện thị hiện thọ sanh nơi thế giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Nầy Thiện nam tử ! như ở thế giới Ta Bà nầy, trong Hiền Kiếp, quá khứ đức Câu Lưu Tôn Phật, đức Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, đức Ca Diếp Phật, và đức Thích Ca Mâu Ni Phật, hiện nay thị hiện thọ sanh, ta đều làm mẹ, đời vị lai, Di Lặc Bồ Tát từ Thiên Cung Đâu Suốt lúc sắp giáng thần phóng đại quang minh chiếu khắp pháp giới thị hiện thần biến thọ sanh cùng chúng Bồ Tát,ta cũng sẽ làm mẹ.
Kế đó theo thứ tự, có Sư Tử Phật, Pháp Tràng Phật, Thiện Nhãn Phật, Tịnh Hoa Phật, Hoa Đức Phật, Đề Xá Phật, Phất Sa Phật, Thiện Ý Phật, Kim Cang Phật, Ly Cấu Phật, Nguyệt Quang Phật, Trì Cự Phật, Danh Xưng Phật, Kim Cang Thuẩn Phật, Thanh Tịnh Nghĩa Phật, Cám Thân Phật, Đáo Bỉ Ngạn Phật, Bửu Diệm Sơn Phật, Trì Minh Phật, Liên Hoa Đức Phật, Danh Xưng Phật, Vô-Lượng Công Đức Phật, Tối Thắng Đăng Phật, Trang Nghiêm Thân Phật, Thiện Oai Nghi Phật, Từ Đức Phật, Vô Trụ Phật, Đại Oai Quang Phật, Vô Biên Âm Phật, Thắng Oán Địch Phật, Ly Nghi Hoặc Phật, Thanh Tịnh Phật, Đại Quang Phật, Tịnh Tâm Phật, Vân Đức Phật, Trang Nghiêm Đảnh Kế Phật, Thọ Vương Phật, Bửu Đăng Phật, Hải Huệ Phật, Diệu Bửu Phật, Hoa Quang Phật, Mãn Nguyện Phật, Đại Tự Tại Phật, Diệu Đức Vương Phật, Tối Tôn Thắng Phật, Chiên Đàn Vân Phật, Cám Nhãn Phật, Thắng Huệ Phật, Quán Sát Huệ Phật, Xí Thạnh Vương Phật, Kiên Cố Huệ Phật, Tự Tại Danh Phật, Sư Tử Vương Phật, Tự Tại Phật, Tối Thắng Đảnh Phật, Kim Cang Trí Sơn Phật, Diệu Đức Tạng Phật, Bửu Võng Nghiêm Thân Phật, Thiện Huệ Phật, Tự Tại Thiên Phật, Đại Thiên Vương Phật, Vô Y Đức Phật, Thiện Thí Phật, Diệm Huệ Phật, Thủy Thiên Phật, Đắc Thượng Vị Phật, Xuất Sanh Vô Thượng Công Đưc Phật, Tiên Nhân Thị Vệ Phật, Tùy Thế Ngữ Ngôn Phật, Công Đức Tự Tại Tràng Phật, Quang Tràng Phật, Quán Thân Phật, Diệu Thân Phật, Hương Diệm Phật, Kim Cang Bửu Nghiêm Phật, Hỉ Nhãn Phật, Ly Dục Phật, Cao Đại Thân Phật, Tài Thiên Phật, Vô Thượng Thiên Phật, Thuận Tịch Diệt Phật, Trí Giác Phật, Diệt Tham Phật, Đại Diêm Vương Phật, Tịch Chư Hữu Phật, Tỳ Xá Khư Thiên Phật, Kim Cang Sơn Phật, Trí Diệm Đức Phật, An Ổn Phật, Sư Tử Xuất Hiện Phật, Viên Mãn Thanh Tịnh Phật, Thanh Tịnh Hiền Phật, Đệ Nhất Nghĩa Phật, Bá Quang Minh Phật, Tối Tăng Thượng Phật, Thâm Tự Tại Phật, Đại Địa Vương Phật, Trang Nghiêm Vương Phật, Giải Thoát Phật, Diệu Âm Phật, Thù Thắng Phật, Tự Tại Phật, Vô Thượng Y Vương Phật, Công Đức Nguyệt Phật, Vô Ngại Quang Phật, Công Đức Tụ Phật, Nguyệt Hiện Phật, Nhựt Thiên Phật, Xuất Chư Hữu Phật, Dũng Mãnh Danh Xưng Phật, Quang Minh Môn Phật, Ta La Vương Phật, Tối Thắng Phật, Dược-Vương Phật, Bửu-Thắng Phật, Kim-Cang-Huệ Phật, Vô-Năng-Thắng Phật, Vô Năng Ánh Tế Phật, Chúng Hội Vương Phật, Đại Danh Xưng Phật, Mẫn Trì Phật, Vô Lượng Quang Phật, Đại Nguyện Quang Phật, Pháp Tự Tại Bất Hư Phật, Bất Thối Địa Phật, Tịnh Thiên Phật, Thiện Sư Phật, Kiên Cố Khổ Hạnh Phật, Nhất Thiết Thiện Hữu Phật, Giải Thoát Âm Phật, Du Hí Vương Phật, Diệt Tà Khúc Phật, Chiêm Bặc Tịnh Quang Phật, Cụ Chúng Đức Phật, Tối Thắng Nguyệt Phật, Chấp Minh Cự Phật, Thù Diệu Thân Phật, Bất Khả Thuyết Phật, Tối Thanh Tịnh Phật, Hữu An Chúng Sanh Phật, Vô Lượng Quang Phật, Vô Úy Âm Phật, Thủy Thiên Đức Phật, Bất Động Huệ Quang Phật, Hoa Thắng Phật, Nguyệt Diệm Phật, Bất Thối Huệ Phật, Ly Ái Phật, Vô Trước Huệ Phật, Tập Công Đức Uẩn Phật, Diệt Ác Thú Phật, Phổ Tán Hoa Phật, Sư Tử Hống Phật, Đệ Nhất Nghĩa Phật, Vô Ngại Kiến Phật, Phá Tha Quân Phật, Bất Trước Tướng Phật, Ly Phân Biệt Hải Phật, Đoan Nghiêm Hải Phật, Tu Di Sơn Phật, Vô Trước Trí Phật, Vô Biên Tòa Phật, Thanh Tịnh Trụ Phật, Tùy Sư hành Phật, Tối Thượng Thí Phật, Thường Nguyệt Phật, Nhiêu Ích Vương Phật, Bất Động Tụ Phật, Phổ Nhiếp Thọ Phật, Nhiêu Ích Huệ Phật, Trì Thọ Phật, Vô Diệt Phật, Cụ Túc Danh Xưng Phật, Đại Oai Lực Phật, Chủng Chủng Sắc Tướng Phật, Vô Tướng Huệ Phật, Bất Động Thiên Phật, Diệu Đức Nan Tư Phật, Mãn Nguyệt Phật, Giải Thoát Nguyệt Phật, Vô Thượng Vương Phật, Hi Hữu Thân Phật, Phạm Cúng Dường Phật, Bất Thuấn Phật, Thuận Tiên Cổ Phật, Tối Thượng Ngiệp Phật, Thuận Pháp Trí Phật, Vô Thắng Thiên Phật, Bất Tư Nghì Công Đức Quang Phật, Tùy Pháp Hành Phật, Vô Lượng Hiền Phật, Phổ Tùy Thuận Tự Tại Phật, Tối Tôn Thiên Phật, nhẫn đến đức Lâu Chí Như Lai, Tất cả là một ngàn đức Phật đã và sẽ thành Phật trong Hiền Kiếp nơi Ta Bà thế giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Cũng như ở cõi Đại Thiên nầy, vô lượng thế giới ở mười phương, trong tất cả kiếp, những bực tu hành hạnh nguyện Phổ Hiền để hóa độ chúng sanh, ta đều tự thấy thân mình làm mẹ của các Ngài.
Thiện Tài Bạch rằng :
Đại Thánh được môn giải thoát nầy đến nay là bao nhiêu thời gian ?
Ma Gia Phu Nhơn nói :
Nầy Thiện nam tử ! Thuở xưa, quá bất tư nghì kiếp số, chẳng phải đạo nhãn của bực tối hậu thân Bồ Tát biết được, có kiếp tên là Tịnh Quang, thế giới tên là Tu Di Đức, dầu là năm loài ở lộn lạo, nhưng cõi đó bằng những chất báu thanh tịnh trang nghiêm không có sự nhơ uế xấu xí. Cõi đó có ngàn ức Tứ Thiên Hạ. Trong đó có một Tứ Thiên Hạ tên là Sư Tử Tràng. Nơi đây có tám mươi ức Vương Thành. Có một Vương Thành tên là Tự Tại Tràng, ngự trị bởi Chuyển Luân Vương tên là Đại Oai Đức.
Phía bắc Vương Thành Tự Tại Tràng, có một đạo tràng tên là Mãn Nguyệt Quang Minh. Thần đạo tràng nầy tên là Từ Đức.
Bấy giờ có Bồ Tát tên là Ly Cấu Tràng ngồi nơi đạo tràng nầy thành Đẳng Chánh Giác.
Có một ác ma tên là Kim Sắc Quang cùng quyến thuộc vô lượng chúng câu hội đến chỗ Bồ Tát.
Chuyển Luân Vương Đại Oai Đức đã được Bồ Tát thần thông tự tại, biến hóa binh chúng đông hơn quân ma bao vây đạo tràng. Quân ma sợ hãi tự tan rã. Do đó Bồ Tát Ly Cấu Tràng thành Vô Thượng Chánh Giác.
Thần đạo tràng thấy sự việc trên đây, lòng hoan hỉ vô lượng, với Chuyển Luân Vương tưởng là con trai của mình, đối trước Phật phát nguyện rằng : Chuyển Luân Vương nầy chẳng luận sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ của Vương, nhẫn đến đời Vương thành Phật cũng vậy.
Sau khi phát nguyện, nơi đạo tràng ấy, Thần lại từng cúng dường mười na do tha đức Phật.
Nầy Thiện nam tử ! thuở xưa ấy, Thần đạo tràng tên Từ Đức chính là tiền thân của ta.
Chuyển Luân Vương Đại Oai Đức là tiền thân của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai.
Từ lúc ta phát nguyện thuở xưa ấy, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai phàm thọ sanh ở xứ nào cõi nào tu bồ tát hạnh gieo thiện căn giáo hóa chúng sanh, nhẫn đến thị hiện tối hậu thân, mỗi niệm khắp tất cả thế giới, thị hiện thần-biến bồ tát thọ sanh, thường làm con trai của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Nầy Thiện nam tử ! Quá khứ và hiện tại thập phương thế giới, vô lượng chư Phật lúc sắp thành Đẳng Chánh Giác, đều từ nơi rốn phóng đại quang minh chiếu đến thân ta và cung điện của ta ở tối hậu thân của các Ngài, ta đều làm mẹ.
Nầy Thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ tát đại nguyện trí huyễn nầy.
Như chư đại Bồ Tát có đủ tạng đại bi giáo hóa chúng sanh thường không nhàm đủ, dùng sức tự tại mỗi mỗi lỗ lông thị hiện thần biến của vô lượng chư Phật.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy ?
Nầy Thiện nam tử ! Ở thế giới nầy, nơi Đao Lợi Thiên, có thiên vương tên là Chánh Niệm. Thiên vương có người con gái tên là Thiên Chủ Quang.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh tu Bồ tát đạo ?
Thiện Tài Đồng Tử kính lễ nơi chân Ma Gia Phu Nhơn, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Thiện Tài đến Thiên Cung Đao Lợi, đảnh lễ Thiên Nữ Thiên Chủ Quang, hữu nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng :
Đại Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Tôi nghe Đại Thánh khéo có thể dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Thiên Nữ nói :
Nầy Thiện nam tử ! ta được Bồ tát giải thoát môn tên là vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm.
Nầy Thiện nam tử ! Ta ở nơi thế lực của môn giải thoát nầy, ghi nhớ quá khứ có một kiếp tên là Thanh Liên Hoa. Trong kiếp đó ta cúng dường hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Chư Như Lai ấy từ khi mới xuất gia, ta đều săn sóc kính thờ kiến tạo tăng già lam, sắm sửa vật dụng.
Lại lúc chư Phật ấy làm Bồ Tát ở thai mẹ, lúc đản sanh lúc đi bảy bước, lúc đại Sư Tử hống, lúc làm Đồng Tử ở tại cung, lúc đến cội Bồ đề thành Đẳng Chánh Giác, lúc chuyển pháp luân hiện thần biến giáo hóa điều phục chúng sanh, tất cả sự việc nhẫn đến pháp tận, ta đều ghi nhớ rõ không sai sót.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thiện Địa, trong kiếp ấy ta cúng dường mười hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Diệu Đức, trong kiếp ấy ta cúng dường một Phật sát vi trần số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô Sở Đắc, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi bốn ức trăm ngàn na da tha chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thiện Quang, trong kiếp ấy ta cúng dường Diêm phù đề vi trần số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Vô Lượng Quang, trong kiếp ấy ta cúng dường hai mươi hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Tối Thắng Đức, trong kiếp ấy ta cúng dường một hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thiện Bi, trong kiếp ấy ta cúng dường tám mươi hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thắng Du, trong kiếp ấy ta cúng dường sáu mươi hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Diệu Nguyệt, trong kiếp ấy ta cúng dường bảy mươi hằng hà sa số chư Phật Như Lai.
Nầy Thiện nam tử ! Ghi nhớ quá khứ hằng hà sa số kiếp như vậy, ta thường chẳng bỏ rời chư Phật Như Lai Chánh Đẳng Giác.
Ở chỗ chư Như Lai như vậy ta nghe môn giải thoát bồ tát vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm nầy thọ trì tu hành hằng chẳng quên mất.
Những kiếp trước như vậy có bao nhiêu đức Như Lai từ sơ Bồ tát nhẫn đến pháp tận, tất cả sự việc của chư Phật đã làm, ta dùng sức giải thoát thanh tịnh trang nghiêm, đều ghi nhớ rõ ràng như hiện trước mắt, và ta giữ gìn tùy thuận tuân hành thường không bỏ phế.
Nầy Thiện nam tử ! ta chỉ biết môn giải thoát vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm nầy.
Như chư Đại Bồ Tát ra khỏi đêm sanh tử, sáng suốt rời hẳn si tối, chưa từng mê ngủ, tâm không bị che chướng, thân luân khinh an, thanh tịnh biết rõ các pháp tánh, thành tựu thập lực, khai ngộ quần sanh.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó ?
Nầy Thiện nam tử ! Thành Ca Tỳ La có Đồng Tử Sư tên là biến hữu. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh tu Bồ tát đạo.
Nhờ nghe pháp, Thiện Tài vui mừng hớn hở thiện căn bất tư nghì tự nhiên thêm lớn rộng bèn đảnh lễ nơi chân Thiên Nữ Thiên Chủ Quang, hữu nhiễu vô số vòng từ tạ mà đi.
Thiện Tài từ Thiên Cung xuống đi lần đến thành Ca Tỳ La chỗ của Biến Hữu đảnh lễ hữu nhiễu, đứng chắp tay cung kính thưa rằng :
Đại Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Tôi nghe Đại Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Biến Hữu nói :
Nầy Thiện nam tử ! Nơi đây có Đồng Tử tên là Thiện Tri Chúng Nghệ học Bồ Tát Tự Trí, ngươi nên đến hỏi.
Thiện Tài vâng lời đến đảnh lễ Đồng Tử, cung kính thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ? Tôi nghe Đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Đồng Tử nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ta được Bồ tát giải thoát môn tên là Thiện Tri Chúng Nghệ.
Ta hằng xướng trì những tự mẫu nầy :
Lúc xướng chữ A, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là Bồ tát oai lực nhập vô sai biệt cảnh giới.
Lúc xướng chữ ĐA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là vô biên sai biệt môn.
Lúc xướng chữ BA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là phổ chiếu pháp giới.
Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là phổ luân đoạn sai biệt.
Lúc xướng chữ NA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là đắc vô y vô thượng.
Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là ly y chỉ vô cấu.
Lúc xướng chữ ĐÃ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là Bất thối chuyển phương tiện.
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là kim cang tràng.
Lúc xướng chữ ĐỒ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là nhật phổ luân.
Lúc xướng chữ SA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là hải tạng.
Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là phổ sanh an trụ.
Lúc xướng chữ ĐÃ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là viên mãn quang.
Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là sai biệt tích tụ.
Lúc xướng chữ SẮC TRA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là phổ quang minh tức phiền não.
Lúc xướng chữ CA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là vô sai biệt vân.
Lúc xướng chữ TA, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là giáng chú đại vũ.
Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập Bát Nhã Ba la mật môn tên là đại lưu thoan khích chúng phong tề trĩ.
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là phổ an lập.
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là chơn như bình đẳng tạng.
Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là nhập thế gian hải thanh tịnh.
Lúc xướng chữ TOẢ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là niệm nhứt thiết phật trang nghiêm.
Lúc xướng chữ ĐÀ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là quán sát giản trạch nhất thiết pháp tụ.
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tùy thuận nhất thiết phật giáo luân quang minh.
Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tu nhơn địa trí huệ tạng.Lúc xướng chữ XOA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tức chư nghiệp hải tạng.
Lúc xướng chữ TA ĐA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là quyên chư hoặc chướng khai tịnh quang minh.
Lúc xướng chữ NHƯƠNG, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tác thế gian trí huệ môn.
Lúc xướng chữ HẠT LÃ ĐA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là sanh tử cảnh giới trí huệ luân.
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là nhất thiết trí cung điện viên mãn trang nghiêm.
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tu hành phương tiện tạng các biệt viên mãn.
Lúc xướng chữ TA MẠ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tùy thập phương hiện kiến chư phật.
Lúc xướng chữ HA BÀ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là quán sát nhất thiết vô duyên chúng sanh phương tiện nhiếp thọ lịnh xuất sanh vô ngại lực.
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tu hành xu nhập nhất thiết công đức hải.
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là trì nhất thiết pháp vân kiên cố hải tạng
Lúc xướng chữ TRA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tùy nguyện phổ kiến thập phương chư Phật.
Lúc xướng chữ NÃ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là quán sát tự luân hữu vô tận chư ức tự.
Lúc xướng chữ TA PHÃ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là hóa chúng sanh cứu cánh xứ.
Lúc xướng chữ TA CA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là quảng đại tạng vô ngại biện quang minh luân biến chiếu.
Lúc xướng chữ DÃ TA, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là tuyên thuyết nhất thiết phật pháp cảnh giới.
Lúc xướng chữ THẤT, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là nhất thiết chúng sanh giới pháp lôi biến hống.
Lúc xướng chữ SÁ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là dĩ vô ngã pháp khai hiểu chúng sanh.
Lúc xướng chữ ĐÀ, thời nhập môn Bát Nhã Ba la mật tên là nhất thiết pháp luân sai biệt tạng.
Nầy Thiện nam tử ! Lúc ta xướng những tự mẫu như vậy, thời trước tiên ta nhập bốn mươi hai môn Bát Nhã Ba la mật đây cùng với vô lượng vô số môn Bát Nhã Ba la mật.
Nầy Thiện nam tử ! ta chỉ biết môn giải thoát Bồ tát thiện tri chúng nghệ nầy.
Như chư đại Bồ-Tát có thể đối với pháp thiện xảo thế gian và xuất thế gian dùng trí thông đạt đến bỉ ngạn. Những phương pháp lạ, những nghề nghiệp khéo đều thấu đáo không sót. Hiểu rành những văn tự toán số. Y phương chú thuật trị lành bịnh tật.
Lại biết rành những chỗ sản xuất vàng, bạc, châu, ngọc, san hô, lưu ly, ma ni, xa cừ, tất cả kho tàng bửu vật, những phẩm loại, những giá trị.
Những xóm làng thành ấp, cung điện vườn tược, núi, rừng, suối, ao phàm những chỗ ở của tất cả nhơn chúng, Bồ Tát đều có thể phương tiện nhiếp thọ.
Bồ Tát lại khéo quán sát thiên văn, địa lý, tướng người tốt xấu, tiếng của chim thú, mây ráng khí-hậu, trúng mùa, thất thu, quốc độ an nguy, tất cả kỷ-nghệ thế-gian Bồ-Tát đều rành rẽ tận nguyên bổn tất cả.
Bồ-Tát lại có thể phân-biệt pháp xuất thế, chánh danh biện nghĩa quán-sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập trong đó, không nghi ngại không ngu tối, không ngoan độn, không ưu não, không trầm một, đều hiện chứng tất cả.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó ?
Nầy Thiện nam tử ! nước Ma Kiệt Đề có một tụ lạc, trong đó co thành Bà Đát Na. Trong thành ấy có một Ưu Bà-Di tên là Hiền Thắng.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh tu Bồ tát đạo ?
Thiện Tài đảnh lễ Tri Nghệ Đồng Tử, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Thiện Tài đến thành Bà Đát Na đảnh lễ Hiền Thắng, hữu nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng :
Bạch Đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Ưu Bà Di Hiền Thắng nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ta được môn Bồ tát giải thoát tên là Vô Y Xứ Đạo Tràng. Nơi môn giải thoát nầy ta đã thông đạt và đem dạy người.
Ta lại được môn vô tận tam muội, vì có thể xuất sanh nhất thiết trí tánh nhãn vô tận, nhĩ vô tận, tỹ vô tận, thiệt vô tận, thân vô tận, ý vô tận, công đức vô tận, trí huệ vô tận, thần thông vô tận.
Nầy Thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn Bồ tát giải thoát vô y xứ đạo tràng nầy.
Như chư đại Bồ Tát tất cả công đức hạnh không chắp trước, ta thế nào biết được nói được ?
Nầy Thiện nam tử ! Phương nam có thành Ốc Điền. Trong thành ấy có trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát.
Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh tu bồ tát đạo ?
Thiện Tài đảnh lễ Hiền Thắng, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua hướng nam đến chỗ trưởng-giả đảnh lễ hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Trưởng giả nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ta được môn Bồ tát giải thoát tên là Vô Trước Niệm Thanh Tịnh Trang Nghiêm.
Từ khi ta được môn giải thoát nầy đến nay, ta siêng cầu chánh-pháp nơi thập phương chư Phật không thôi dứt.
Nầy Thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát Vô Trước Niệm Thanh Tịnh Trang-Nghiêm.
Như chư đại Bồ Tát được Vô Úy Sư Tử Hống, an trụ nơi phước trí quảng đại, mà ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy ?
Nầy Thiện nam tử ! Chính trong thành nầy có một trưởng giả tên là Diệu Nguyệt, nhà ông thường có quang minh.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Thiện Tài đảnh lễ trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ đi đến nhà trưởng giả Diệu Nguyệt đảnh lễ hữu nhiễu, cung kính chắp tay thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Trưởng giả Diệu Nguyệt nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ta được Bồ tát giải thoát tên là Tịnh Trí Quang Minh.
Nầy Thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát nầy. Như chư đại Bồ Tát chứng được vô lượng môn giải thoát. Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy ?
Nầy Thiện nam tử ! phương nam có thành Xuất Sanh. Nơi đó có trưởng giả tên là Vô Thắng Quân.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh tu Bồ tát đạo ?
Thiện Tài đảnh lễ trưởng giả Diệu Nguyệt, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ đi qua phương nam, đến đảnh lễ trưởng giả Vô Thắng Quân, cung kính thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Trưởng giả Vô Thắng Quân nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ta được bồ-tát giải-thoát tên là vô tận tướng.
Ta do chứng môn bồ tát giải thoát nầy nên thấy vô lượng chư Phật, được vô tận tạng.
Nầy Thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát vô tận tướng nầy.
Như chư đại Bồ Tát được vô hạn trí vô ngại biện tài, Ta làm sao biết được nói được công đức hạnh ấy ?
Nầy Thiện nam tử ! Thành nam nầy có Tụ Lạc Chi Vi Pháp. Trong đó có một Bà La Môn tên là Tối Tịch Tịnh.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Thiện Tài đảnh lễ trưởng giả Vô Thắng Quân, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ đi đến đảnh lễ Tối Tịch Tịnh, hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Bà La Môn nói :
Nầy Thiện nam tử ! Ta được môn bồ tát giải thoát tên là Thành Nguyện Ngữ.
Chư Bồ Tát quá khứ hiện tại và vị lai do dùng lời nói chơn thành nầy nên được không thối chuyển đạo vô thượng Bồ đề, không đã thối, không hiện thối, không sẽ thối.
Do ta trụ nơi lời nói thành nguyện nên làm điều chi cũng được toại ý.
Nầy Thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát thành nguyện ngữ nầy.
Như chư Bồ Tát đi đứng đều chẳng trái với thành nguyện ngữ, lời nói ra quyết là chơn thành chưa bao giờ hư vọng, do đây xuất sanh vô lượng công đức. Ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó ?
Nầy Thiện nam tử ! phương nam đây có thành tên là Diệu Ý Hoa Môn. Nơi đó có Đồng Tử tên là Đức Sanh, lại có Đồng Nữ tên là Hữu Đức.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Thiện Tài đảnh lễ Tối Tịch Tịnh, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ đi qua phương nam.
---- Hán bộ Quyển thứ bảy mươi bảy ----
Thiện Tài đi lần đến thành Diệu Ý Hoa Môn, đảnh lễ Đồng Tử Đức Sanh và Đồng Nữ Hữu-Đức, hữu nhiễu cung kính chắp tay bạch rằng :
Đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ? Xin đức Thánh từ mẫn chỉ dạy.
Đức Sanh và Hữu Đức nói :
Nầy Thiện nam tử ! Chúng ta chứng được Bồ tát giải thoát tên là Huyễn Trụ.
Vì được môn giải thoát nầy nên thấy :
Tất cả thế giới đều là huyễn trụ, do nhơn duyên mà sanh khởi.
Tất cả chúng sanh đều là huyễn trụ, do nghiệp phiền não mà khởi.
Tất cả chúng sanh đều là huyễn trụ, do nghiệp phiền não mà sanh khởi.
Tất cả thế gian đều là huyễn trụ, do vô minh, hữu, ái xoay vần làm duyên sanh khởi.
Tất cả pháp đều là huyễn-trụ, do những huyễn duyên ngã kiến vân vân sanh khởi.
Tất cả tam thế đều là huyễn trụ, do những điên đảo trí ngã kiến vân vân sanh khởi.
Tất cả chúng sanh sanh diệt, sanh lão bịnh tử ưu bi khổ não đều là huyễn trụ, do hư vọng phân biệt sanh khởi.
Tất cả quốc độ đều là huyễn trụ, do tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo và vô minh hiện khởi.
Tất cả Thanh Văn và Bích chi Phật đều là huyễn trụ, do trí đoạn phân biệt mà thành.
Tất cả Bồ Tát đều là huyễn trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và giáo hóa chúng sanh mà thành.
Tất cả Bồ Tát chúng hội biến hóa điều phục những công hạnh đều là huyễn trụ, do nguyện trí huyễn mà thành.
Nầy Thiện nam tử ! Huyễn cảnh tự tánh bất tư nghì.
Chúng ta chỉ biết môn giải thoát huyễn trụ nầy.
Như chư đại Bồ Tát khéo nhập vô biên sự huyễn. Chúng ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh đó ?
Đồng Tữ và Đồng Nữ nói môn giải thoát của mình đã chứng xong, dùng sức thiện căn bất tư nghì làm cho thân Thiện Tài được nhu nhuyến bóng sáng, mà nói rằng :
Nầy Thiện nam tử ! Phương nam đây có nước Hải Ngạn. Trong nước ấy có khu vườn Đại Trang Nghiêm. Trong vườn có một tòa lâu các rộng lớn tên là Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng.
Lâu các nầy có ra là do bồ tát thiện căn quả báo do bồ tát niệm lực, nguyện lực, tự tại lực, thần thông lực, do bồ tát thiện xảo phương tiện, do Bồ tát phước đức trí huệ.
Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát trụ bất tư nghì giải thoát dùng tâm đại bi vì các chúng sanh mà hiện cảnh giới như vậy, chứa họp những trang nghiêm như vậy.
Di Lặc đại Bồ Tát ở trong lâu các ấy để nhiếp thọ Phụ Mẫu quyến thuộc và nhơn dân làm cho họ được thành thục. Lại muốn cho những chúng sanh đồng thọ sanh đồng tu hành ở trong đại thừa được kiên cố. Lại muốn cho tất cả chúng sanh ấy tùy bậc tùy thiện căn đều được thành tựu.
Lại cũng muốn vì ngươi mà hiển thị môn Bồ tát giải thoát, hiển thị Bồ Tát khắp tất cả chỗ thọ sanh tự tại, hiển thị Bồ Tát dùng nhiều thân hiện khắp nơi thường giáo hóa chúng sanh, hiển thị Bồ Tát dùng sức đại bi nhiếp tất cả tài sản thế gian mà chẳng nhàm, hiển thị tu đủ tất cả công hạnh biết rõ tất cả hạnh lìa các tướng, hiển thị Bồ Tát thọ sanh khắp nơi vì biết rõ tất cả sanh đều vô tướng.
Ngươi đến đó hỏi : Bồ Tát thế nào thật hành Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo, thế nào học Bồ tát giới, thế nào tịnh bồ tát tâm, thế nào phát Bồ tát nguyện, thế nào chứa nhóm bồ tát trợ đạo, thế nào nhập bậc Bồ-Tát, thế nào thành mãn Bồ tát Ba la mật, thế nào được Bồ tát vô sanh nhẫn, thế nào đủ Bồ tát công đức, thế nào thờ Bồ tát Thiện tri thức ?
Nầy Thiện nam tử ! Di Lặc Bồ Tát thông đạt tất cả Bồ tát hạnh, biết rõ tâm chúng sanh, thường hiện thân trước họ để giáo hóa điều phục.
Di Lặc Bồ Tát đã viên mãn tất cả Ba la mật, đã ở tất cả bậc Bồ tát, đã chứng tất cả Bồ tát nhẫn, đã nhập tất cả Bồ tát vị, đã được Phật thọ ký, đã du tất cả cảnh Bồ tát, đã được thần lực của tất cả Phật, đã được đức Như Lai đem pháp thủy cam lộ nhất thiết trí quán đảnh.
Nầy Thiện nam tử ! Di Lặc Bồ Tát có thể nhuận trạch thiện căn của ngươi. Có thể tăng trưởng tâm Bồ đề của ngươi, có thể kiên cố chí của ngươi, có thể thêm pháp lành cho ngươi, có thể lớn căn Bồ tát cho ngươi, có thể chỉ bày pháp vô ngại cho ngươi, có thể làm cho vào bậc Phổ Hiền, có thể nói nguyện Bồ tát cho ngươi, có thể nói hạnh Phổ Hiền cho ngươi, có thể vì ngươi mà nói tất cả Bồ tát hạnh nguyện làm thành công đức.
Nầy Thiện nam tử ! Ngươi chẳng nên tu một điều lành, chiếu một pháp, hành một hạnh, phát một nguyện, được một thọ ký, trụ một nhẫn mà cho là rốt ráo.
Ngươi chớ nên đem tâm có hạn lượng mà thật hành lục độ, trụ nơi thập địa, tịnh phật độ, thờ Thiện tri thức.
Tại sao vậy ?
Nầy Thiện nam tử ! Vì Bồ Tát phải gieo vô lượng thiện căn, phải chứa vô lượng Bồ đề cụ, phải tu vô lượng Bồ đề nhơn, phải học vô-lượng xảo hồi hướng, phải giáo hóa vô lượng chúng sanh giới, phải biết vô lượng chúng sanh tâm, phải biết vô lượng chúng sanh căn, phải rõ vô lượng chúng sanh giải, phải quán vô lượng chúng sanh hạnh, phải điều phục vô lượng chúng sanh, phải đoạn vô lượng phiền não, phải tịnh vô lượng nghiệp tập, phải diệt vô lượng tà kiến, phải trừ vô lượng tâm tạp nhiễm, phải phát vô lượng tâm thanh tịnh, phải nhổ vô lượng tên độc khổ, phải cạn vô lượng biển aí dục, phải phá vô lượng tối vô minh, phải xô vô lượng núi ngã mạn, phải bức đứt vô lượng dây sanh tử, phải qua khỏi vô lượng vòng hữu lậu, phải khô vô lượng biển thọ sanh, phải làm cho vô lượng chúng sanh ra khỏi bùn lầy ngũ dục, phải khiến vô lượng chúng sanh lìa ngục tù tam giới, phải đặt vô lượng chúng sanh ở trong thánh đạo, phải tiêu diệt vô lượng hạnh tham dục, phải trừ sạch vô lượng hạnh sân hận, phải phá trừ vô lượng hạnh ngu si, phải siêu vô lượng lưới ma, phải lìa vô lượng nghiệp ma, phải rửa sạch Bồ tát vô lượng dục lạc, phải tăng trưởng Bồ tát vô lượng phương tiện, phải xuất sanh bồ tát vô-lượng căn tăng thượng, phải sáng sạch Bồ tát vô lượng quyết định giải, phải xu nhập Bồ tát vô lượng bình đẳng, phải thanh tịnh bồ tát vô lượng công đức, phải tu tập Bồ tát vô lượng công hạnh, phải thị hiện Bồ tát vô lượng hạnh tùy thuận thế gian, phải sanh vô lượng sức tịnh tín, phải trụ vô lượng sức tinh tấn, phải thanh tịnh vô lượng sức chánh niệm, phải thành mãn vô lượng sức tam muội, phải khởi vô lượng sức tịnh huệ, phải kiên cố vô lượng sức thắng giải, phải tích tập vô lượng sức phước đức, phải lớn vô lượng sức trí huệ, phải phát khởi vô lượng sức Bồ tát, phải viên mãn vô lượng sức Như Lai, phải phân biệt vô lượng pháp môn, phải rõ biết vô lượng pháp môn, phải thanh tịnh vô lượng pháp môn, phải sanh vô-lượng pháp quang minh, phải làm vô lượng pháp chiếu diệu, phải chiếu vô lượng phẩm loại căn, phải biết vô lượng phiền não bịnh, phải chứa vô lượng diệu pháp dược, phải chữa vô lượng bịnh của chúng sanh, phải sắm sửa vô lượng đồ cúng cam lộ, phải đến vô lượng Phật độ, phải cúng dường vô lượng Như Lai, phải vào vô lượng Bồ tát hội, phải thọ vô lượng Phật giáo, phải nhẫn vô lượng tội chúng sanh, phải diệt vô lượng nạn ác đạo, phải khiến vô lượng chúng sanh sanh về thiện đạo, phải dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp vô lượng chúng sanh, phải tu vô lượng môn tổng trì, phải sanh vô lượng môn đại nguyện, phải tu vô lượng sức đại từ đại nguyện, phải siêng cầu vô lượng phật pháp thường không thôi dứt, phải khởi vô lượng sức tư duy, phải khởi vô lượng sự thần thông, phải tịnh vô lượng trí quang minh, phải qua đến vô lượng loài chúng sanh, phải thọ vô-lượng đời trong các cõi, phải hiện vô lượng thân sai biệt, phải biết vô lượng pháp ngôn từ, phải nhập vô-lượng tâm sai biệt, phải biết Bồ tát đại cảnh giới, phải trụ Bồ tát đại cung điện, phải quán bồ tát thậm thâm diệu pháp, phải biết cảnh giới khó biết của Bồ Tát, phải thật hành những hạnh khó làm của Bồ Tát, phải đầy đủ oai đức tôn trọng của Bồ Tát, phải đi theo chánh vị khó nhập của Bồ Tát, phải biết những hạnh của Bồ Tát, phải hiện thần lực phổ biến của Bồ Tát, phải thọ pháp vân bình đẳng của Bồ Tát, phải làm rộng vô biên hạnh của Bồ Tát, phải viên mãn Ba la mật của Bồ Tát, phải thọ vô lượng ký biệt của Bồ Tát, phải nhập vô lượng nhẫn môn của Bồ Tát, phải tu vô lượng địa vị của Bồ Tát, phải thanh tịnh vô lượng pháp môn của Bồ Tát, phải đồng với chư Bồ Tát : Trụ vô biên kiếp cúng dường vô lượng Phật, nghiêm tịnh bất khả thuyết phật độ. Xuất sanh bất khả thuyết Bồ tát nguyện.
Nầy Thiện nam tử ! Tóm lại, phải khắp tu Bồ tát hạnh, phải khắp giáo hóa chúng sanh giới, phải khắp vào tất cả kiếp, phải khắp sanh tất cả xứ, phải khắp biết tất cả thế, phải khắp thật hành tất cả pháp, phải khắp tịnh tất cả cõi, phải khắp mãn tất cả nguyện, phải khắp cúng tất cả Phật, phải khắp đồng tất cả Bồ tát nguyện, phải khắp thờ tất cả Thiện tri thức.
Nầy Thiện nam tử ! Ngươi cầu Thiện tri thức chẳng nên nhàm mỏi. Ngươi thỉnh hỏi Thiện tri thức chớ sợ khổ nhọc. Ngươi gần gũi Thiện tri thức chớ có thối chuyển. Ngươi cúng dường Thiện tri thức chớ có thôi nghỉ. Ngươi lãnh thọ lời dạy của Thiện tri thức chớ có lầm lộn, ngươi học hạnh của Thiện tri thức chớ có nghi hoặc. Ngươi nghe Thiện tri thức diễn nói môn xuất ly chẳng nên dụ dự. Thấy Thiện tri thức tùy phiền não hành chớ có hiềm lạ. Ở chỗ Thiện tri thức phải sanh lòng thâm tín tôn kính chẳng nên biến đổi.
Tại sao vậy ?
Nầy Thiện nam tử ! Vì Bồ Tát do nơi Thiện tri thức mà được nghe tất cả Bồ tát hạnh, thành tựu tất cả Bồ tát công đức, xuất sanh tất cả Bồ tát đại nguyện, dẫn phát tất cả Bồ tát thiện căn, tích tập tất cả Bồ tát trợ đạo, khai phát tất cả Bồ tát pháp quang minh, hiển thị tất cả Bồ tát xuất ly môn, tu học tất cả Bồ tát thanh tịnh giới, an trụ tất cả Bồ tát công đức pháp, thanh tịnh tất cả Bồ tát quảng đại trí, tăng trưởng tất cả Bồ tát kiên cố tâm, đầy đủ tất cả bồ tát Đà la ni biện tài môn, được tất cả Bồ tát thanh tịnh tạng, sanh tất cả Bồ tát định quang minh, được tất cả Bồ tát thù thắng nguyện, cùng tất cả Bồ tát đồng một nguyện, nghe tất cả Bồ tát thù thắng pháp, được tất cả Bồ tát bí mật xứ, đến tất cả Bồ tát pháp bửu sở, thêm tất cả Bồ tát mầm thiện căn, lớn tất cả Bồ tát thân trí huệ, hộ tất cả Bồ tát tạng thâm mật, trì tất cả Bồ tát phước đức tụ, tịnh tất cả Bồ tát thọ sanh đạo, thọ tất cả Bồ tát chánh pháp vân, nhập tất cả Bồ tát đại nguyện lộ, đến tất cả Như Lai Bồ đề quả, nhiếp thủ tất cả Bồ tát diệu hạnh, khai thị tất cả bồ tát công đức, qua tất cả phương thính thọ diệu pháp, khen tất cả Bồ tát oai đức quảng đại. Sanh tất cả Bồ tát đại từ bi lực, nhiếp tất cả Bồ tát thắng tự tại lực, sanh tất cả Bồ tát Bồ đề phần, làm tất cả Bồ tát lợi ích sự.
Nầy Thiện nam tử ! Bồ Tát do Thiện tri thức nhiệm trì nên chẳng đọa ác đạo, do Thiện tri thức nhiếp thọ mà chẳng thối đại thừa, do Thiện tri thức hộ niệm mà chẳng phạm Bồ tát giới, do Thiện tri thức thủ hộ mà chẳng theo ác tri thức, do Thiện tri thức dưỡng dục mà chẳng quyết Bồ tát pháp, do Thiện tri thức nhiếp thủ mà siêu việt hạng phàm phu, do Thiện tri thức giáo hối mà siêu việt bực nhị thừa, do Thiện tri thức dìu dắt mà được ra khỏi thế gian, do Thiện tri thức trưởng dưỡng mà có thể chẳng nhiễm thế pháp, do kính thờ Thiện tri thức mà tu tất cả bồ tát hạnh, do cúng dường Thiện tri thức mà đủ tất cả pháp trợ đạo, do thân cận Thiện tri thức mà chẳng bị nghiệp hoặc nhiếp phục, do nương dựa Thiện tri thức mà thế lực kiên cố chẳng sợ ma chúng, do y chỉ Thiện tri thức mà tăng trưởng tất cả pháp Bồ đề phần.
Tại sao vậy ?
Nầy Thiện nam tử ! Vì Thiện tri thức có thể trừ sạch các điều chướng ngại, có thể diệt các tội, có thể dứt các nạn, có thể ngăn các ác, có thể phá đêm dài tối tăm vô minh, có thể làm sập đổ lao ngục kiên cố kiến chấp, có thể thoát khỏi thành sanh tử, có thể bỏ nhà thế tục, có thể cắt lưới ma, có thể nhổ tên khổ, có thể lìa chỗ hiễm nạn vô trí, có thể ra khỏi đồng hoang rộng lớn tà kiến, có thể qua khỏi dòng hữu-lậu, có thể lìa những tà đạo, có thể chỉ đường Bồ đề, có thể dạy pháp Bồ tát, có thể khiến an trụ Bồ tát hạnh, có thể khiến xu hướng Nhất thiết trí, có thể tịnh mắt trí huệ, có thể lớn tâm Bồ đề, có thể sanh đại bi, có thể diễn diệu hạnh, có thể nói Ba la mật, có thể tẩn ác tri thức, có thể khiến trụ các bậc, có thể khiến được các nhẫn, có thể khiến tu tập các thiện căn, có thể khiến thành xong tất cả đạo cụ, có thể thí cho tất cả công đức lớn, có thể khiến đến ngôi nhất thiết chủng trí, có thể khiến hoan hỉ nhóm công đức, có thể khiến hớn hở tu các công hạnh, có thể khiến xu nhập nghĩa thậm thâm, có thể khiến khai thị môn xuất ly, có thể khiến trừ tuyệt các ác đạo, có thể dùng pháp quang chiếu diệu, có thể dùng pháp vũ nhuận trạch, có thể khiến tiêu diệt tất cả phiền não, có thể khiến bỏ lìa tất cả kiến chấp, có thể khiến tăng trưởng tất cả Phật trí huệ, có thể khiến an trụ tất cả phật pháp môn.
Nầy Thiện nam tử ! Thiện tri thức như từ-mẫu, vì xuất sanh phật chủng. Như từ phụ, vì lợi ích rộng lớn. Như nhũ mẫu, vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo sư, vì dạy sở học của Bồ Tát. Như đạo sư, vì hay chỉ đường Ba la mật. Như lương y, vì hay chữa bịnh phiền não. Như Tuyết Sơn, vì tăng trưởng thuốc nhất thiết trí. Như dũng tướng, vì dẹp trừ tất cả sự bố úy. Như người đưa đò, vì làm cho ra khỏi dòng sanh tử. Như lái thuyền, vì khiến đến bửu sở trí huệ.
Nầy Thiện nam tử ! Thường phải chánh niệm suy nghĩ thiện tri thức là như vậy.
Lại nầy Thiện nam tử !Ngươi kính thờ tất cả Thiện tri thức phải phát tâm như đại địa, vì gánh vác trọng nhiệm không mỏi nhọc. Phải phát tâm như kim cang vì chí nguyện kiên cố chẳng hư hoại, phải phát tâm như núi thiết vi vì tất cả các sự khổ không lay động. Phải phát tâm như người hầu hạ, vì đều tùy thuận theo lời dạy. Phải phát tâm như đệ tử, vì không chống trái lời dạy bảo. Phải phát tâm như tôi tớ, vì tất cả lao vụ không nhàm. Phải phát tâm như dưỡng mẫu, vì chịu những sự cần khổ không biết nhọc. Phải phát tâm như người làm thuê, vì không trái chỗ sai bảo. Phải phát tâm như người hốt phân, vì lìa kiêu mạn. Phải phát tâm như cây lúa đã chín, vì có thể hạ thấp. Phải phát tâm như lương-mã, vì lìa ác tánh. Phải phát tâm như xe lớn, vì có thể chở nặng. Phải phát tâm như voi điều thuận, vì hằng phục tùng. Phải phát tâm như núi Tu Di, vì chẳng khuyên động. Phải phát tâm như lương khuyển, vì chẳng phản hại chủ. Phải phát tâm như chiên đà la, vì lìa kiêu mạn. Phải phát tâm như kiện ngưu vì không hung giận. Phải phát tâm như ghe thuyền, vì qua lại chẳng mỏi. Phải phát tâm như cầu đò, vì tế độ không biết nhọc. Phải phát tâm như hiếu tử, vì thừa thuận nhan sắc. Phải phát tâm như vương tử, vì tuân hành giao mạng.
Lại nầy Thiện nam tử ! Với tự thân, ngươi phải tưởng là bịnh khổ. Với Thiện tri thức, ngươi phải tưởng là y vương. Với pháp của Thiện tri thức dạy, ngươi phải tưởng là lương dược. Với chỗ tu hành, tưởng trừ được bịnh.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là đi xa. Nơi Thiện tri thức, tưởng là đạo sư. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là con đường chánh. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đến được xa.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng cầu được độ. Nơi Thiện tri thức, tưởng là người lái thuyền. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là thuyền là chèo. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đến bờ kia.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là lúa mạ. Nơi thiện tri thức, tưởng là Long Vương. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là mưa đúng thời tiết. Nơi chỗ tu hành, tưởng là có thể thành thục.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là nghèo cùng. Nơi Thiện tri thức, tưởng là Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là của cải châu báu. Nơi chỗ tu hành, tưởng là giàu có.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là đệ tử. Nơi Thiện tri thức, tưởng là thợ khéo. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là nghề khéo. Nơi chỗ tu hành, tưởng là biết rõ.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là chỗ đáng sợ hãi. Nơi Thiện tri thức, tưởng là người dũng kiện. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là dao gậy. Nơi chỗ tu hành, tưởng là dẹp trừ được kẻ oán địch.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là người đi buôn. Nơi Thiện tri thức, tưởng là đạo sư. Nơi pháp của thiện Tri thức dạy, tưởng là trân bửu. Nơi chỗ tu hành, tưởng là lượm châu báu.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là con cái. Nơi Thiện tri thức, tưởng là cha mẹ. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là gia nghiệp. Nơi chỗ tu hành, tưởng là nối nghiệp nhà.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng là Vương Tử. Nơi Thiện tri thức, tưởng là đại thần. Nơi pháp của Thiện tri thức dạy, tưởng là lịnh của vua. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đội mão vua, mặc áo vua, cột đai vua, ngồi điện vua.
Nầy Thiện nam tử ! ngươi phải phát tâm như vậy, suy nghĩ như vậy để gần Thiện tri thức.
Tại sao vậy ? Vì có tâm như vậy để gần Thiện tri thức thời chí nguyện trọn được thanh tịnh.
Lại nầy Thiện nam tử ! Thiện tri thức làm lớn các thiện căn, như núi tuyết sanh lớn các dược thảo.
Thiện tri thức là pháp khí của Phật, như đại hải nhận thọ các dòng nước.
Thiện tri thức là chỗ công đức, như đại hải xuất sanh các châu báu.
Thiện tri thức thanh tịnh tâm Bồ đề, như lửa hừng luyện chơn kim.
Thiện tri thức vượt hơn thế pháp như núi Tu Di vọt lên mặt đại hải.
Thiện tri thức chẳng nhiễm thế pháp, như hoa sen chẳng dính nước.
Thiện tri thức chẳng thọ các điều ác, như đại hải chẳng chứa tử thi.
Thiện tri thức tăng trưởng pháp lành, như trăng tròn quang sắc viên mãn.
Thiện tri thức soi sáng pháp giới, như mặt nhựt chiếu khắp thế gian.
Thiện tri thức làm lớn thân Bồ Tát, như cha mẹ nuôi nấng con cái.
Nầy Thiện nam tử ! Tóm lại, Bồ Tát nếu có thể tùy thuận lời dạy của Thiện tri thức, thời được mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha công đức thời thanh tịnh mười bất khả thuyết trăm ngàn na do tha thâm tâm, thời lớn mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Bồ tát căn, thời thành mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Bồ tát lực, thời dứt mười bất khả thuyết trăm ngàn ức a tăng kỳ chướng, thời siêu mười bất khả thuyết trăm ngàn ức a tăng kỳ ma cảnh, thời nhập mười bất khả thuyết trăm ngàn ức a tăng kỳ pháp môn, thời mãn mười bất khả thuyết trăm ngàn ức a tăng kỳ trợ đạo, thời tu mười bất khả thuyết trăm ngàn ức a tăng kỳ diệu hạnh, thời phát mười bất khả thuyết trăm ngàn ức a tăng kỳ đại nguyện.
Nầy Thiện nam tử ! Ta lại lược nói Bồ tát hạnh, tất cả Bồ Tát Ba la mật, tất cả Bồ tát địa, tất cả Bồ tát nhẫn, tất cả Bồ tát tổng trì môn, tất cả Bồ tát tam muội môn, tất cả Bồ tát thần thông trí, tất cả Bồ tát hồi hướng, tất cả Bồ tát nguyện, tất cả Bồ tát thành tựu phật pháp. Đều do sức của Thiện tri thức. Đều dùng Thiện tri thức làm căn bổn. Đều nương Thiện tri thức mà sanh. Đều nương Thiện tri thức mà ra. Đều nương Thiện tri thức mà lớn. Đều nương Thiện tri thức mà trụ. Đều do Thiện tri thức làm nhân duyên. Đều do Thiện tri thức hay phát khởi.
Bấy giờ Thiện Tài Đồng Tử nghe Thiện tri thức có công đức như vậy, có thể khai thị vô lượng diệu hạnh Bồ tát, có thể thành tựu phật pháp quảng đại, nên vui hớn hở đảnh lễ Đức Sanh và Hữu Đức, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ đi qua phương nam.
Thiện Tài được nghe lời Thiện tri thức dạy nhuận trạch tâm mình, chánh niệm tư duy công hạnh của bồ tát. Tự nhớ đời trước chẳng tu hạnh lễ kính, tức thời phát tâm cố gắng tiến bước. Lại nhớ đời trước thân tâm chẳng thanh tịnh, tức thời phát tâm chuyên tự sửa sạch. Lại nhớ đời trước làm những ác nghiệp, tức thời phát ý chuyên tự phòng ngừa và dứt diệt. Lại nhớ đời trước khởi những vọng tưởng, tức thời phát ý hằng suy gẫm chơn chánh. Lại nhớ đời trước tu tập chỉ vì tự thân, tức thời phát ý khiến tâm quảng đại lợi khắp chúng sanh. Lại nhớ đời trước theo cầu cảnh dục thường tự tổn hao không chút lợi ích, tức thời phát ý tu hành phật pháp nuôi lớn các căn để tự an ổn. Lại nhớ đời trước khởi tà tư niệm điên đảo, tức thời phát ý sanh tâm chánh kiến khởi nguyện Bồ tát. Lại nhớ đời trước ngày đêm siêng nhọc làm những sự ác, tức thời phát ý khởi đại tinh tấn thành tựu phật pháp. Lại nhớ đời trước thọ sanh ngũ thú thân mình thân người đều không lợi ích, tức thời phát ý nguyện đem thân mình nhiêu ích chúng sanh thành tựu phật pháp kính thờ tất cả Thiện tri thức. Suy nghĩ như trên đây rồi trong lòng rất hoan hỉ.
Thiện Tài lại quán thân nầy là nhà khổ sanh lão bịnh tử. Nguyện tận kiếp vị lai tu Bồ tát đạo giáo hóa chúng sanh, gặp chư Như Lai thành tựu phật pháp, du hành tất cả cõi phật, kính thờ tất cả pháp sư, trụ trì tất cả phật giáo, tìm cầu tất cả pháp lữ, thấy tất cả Thiện tri thức, chứa họp tất cả những phật pháp, làm nhơn duyên cho tất cả Bồ tát nguyện trí thân. Lúc nghĩ như vậy, Thiện Tài được thêm lớn vô lượng thiện căn. Liền ở nơi tất cả Bồ Tát thâm tín tôn trọng, tưởng là hi hữu, tưởng là đại sư, các căn thanh tịnh, pháp lành càng thêm, khởi tất cả Bồ tát cung kính cúng dường, làm tất cả Bồ Tát cúi mình chắp tay, sanh con mắt thấy khắp thế gian của tất cả Bồ Tát, khởi lòng nhớ khắp chúng sanh của tất cả Bồ Tát, hiện vô lượng thân nguyện hóa của tất cả Bồ Tát, xuất âm thanh nói khen thanh tịnh của tất cả Bồ Tát, thấy tất cả chư Phật và Bồ Tát quá khứ, hiện tại, thị hiện thành đạo và thần thông biến hóa ở khắp mọi nơi. Nhẫn đến không có một chỗ nhỏ nào bằng đầu sợi lông mà chẳng châu biến.
Thiện Tài lại được trí nhãn quang minh thanh tịnh thấy cảnh giới sở hành của tất cả Bồ Tát, tâm vào khắp thập phương sát võng, nguyện rộng khắp hư không pháp giới, tam thế bình đẳng không thôi nghỉ.
Tất cả những sự lợi ích lớn mà Thiện Tài đã được đều do tin thọ lời dạy của thiện tri thức cả.
Đến nước Hải Ngạn, Thiện Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng dường như vậy, xưng tán như vậy, quán sát như vậy, nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, vô lượng cảnh giới trí huệ như vậy, ở trước đại lâu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy quán sát.
Vì sức đại nguyện tín giải sâu nên nhập môn trí huệ thân bình đẳng khắp tất cả xứ. Hiện thân mình ở khắp trước chư Như Lai, chư Bồ Tát, chư Thiện tri thức, chư Phật tháp miếu, chư Phật hình tượng, ở trước tất cả chỗ ở của chư Phật chư Bồ Tát, tất cả pháp bửu, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật và tháp miếu của chư vị ấy. Cũng hiện thân mình ở trước tất cả Thánh Chúng, tất cả Phụ Mẫu, Tất cả Chúng sanh, tất cả chỗ, Thiện Tài đều tôn trọng lễ tán suốt vị lai tế không thôi nghỉ, khắp hư không vì chẳng có biên lượng, khắp pháp giới vì không chướng ngại, khắp thiệt tế vì khắp tất cả, khắp Như Lai vì vô phân biệt, dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư duy khởi, giống như tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không có sanh vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển.
Lại quyết định biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả đều do nhơn, tất cả nghiệp đều do hoặc tập, tất cả Phật xuất thế đều do đức tin, tất cả sự hóa hiện cúng dường, đều do quyết định giải, tất cả hóa Phật đều do tâm cung-kính, tất cả Phật Pháp đều do thiện căn, tất cả hóa thân đều do phương tiện, tất cả Phật sự đều do đại nguyện, tất cả Bồ Tát tu công hạnh, đều do hồi hướng, tất cả pháp giới quảng đại trang nghiêm đều từ cảnh giới nhất thiết trí.
Rời đoạn kiến nên biết hồi hướng, rời thường kiến nên biết vô sanh, rời vô nhơn kiến nên biết chánh nhơn, rời điên đảo kiến nên biết như thật lý, rời tự tại kiến nên biết chẳng do nơi khác, rời tự tha kiến nên biết từ duyên khởi, rời biên chấp kiến nên biết pháp giới vô biên, rời vãng lai kiến nên biết như ảnh tượng, rời hữu vô kiến nên biết chẳng sanh diệt, rời nhất thiết pháp kiến nên biết không vô sanh, nên biết chẳng tự tại, nên biết do nguyện lực xuất sanh, rời nhất thiết tướng kiến nên nhập vô tướng tế.
Vì biết tất cả pháp như hột giống nẩy mầm, như ấn sanh văn.
Vì biết chất như tượng, biết thanh âm như vang, biết cảnh như mộng, biết nghiệp như huyễn, rõ đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, rõ báo do nghiệp tập.
Biết rõ tất cả pháp công đức đều từ Bồ Tát phương tiện thiện xảo mà lưu xuất.
Thiện Tài Đồng Tử nhập quán trí như vậy, đoan tâm khiết niệm, ở trước lâu các mọp lạy sát đất, bất tư nghì thiện căn lưu chú thân tâm mát mẻ thơ thới. Rồi đứng dậy chiêm ngưỡng mắt không tạm rời chấp tay hữu nhiễu vô lượng vòng. Tự nghĩ rằng :
Đại lâu các nầy là chỗ ở của bậc đạt không, vô tướng, vô nguyện.
Là chỗ ở của bậc nhất thiết pháp vô phân biệt.
Là chỗ ở của bậc rõ pháp giới vô sai biệt.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả chúng sanh bất khả đắc.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp vô sanh.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà cửa.
Là chỗ ở của bậc chẳng thích tất cả tụ lạc.
Là chỗ ở của bậc chẳng dựa tất cả cảnh giới.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp không tự tánh.
Là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân biệt.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng, tâm ý, thức.
Là chỗ ở của bậc chẳng xuất chẳng nhập của tất cả đạo.
Là chỗ ở của bậc nhập thậm thâm Bát Nhã Ba la mật.
Là chỗ ở của bậc hay dùng phương tiện trụ phổ môn pháp giới.
Là chỗ ở của bậc tắt dứt tất cả lửa phiền não.
Là chỗ ở của bậc dùng tăng thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái, mạn.
Là chỗ ở của bậc xuất sanh tất cả thiền giải thoát tam muội, thông sáng và du hí trong đó.
Là chỗ ở của bậc cảnh giới tam muội của tất cả Bồ Tát.
Là chỗ ở của bậc an trụ chỗ của tất cả Như Lai.
Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp mà không hư tướng thời gian.
Là chỗ ở của bậc đem một thế giới vào tất cả thế giới, đem tất cả thế giới vào một thế giới mà chẳng hoại tướng không gian.
Là chỗ ở của bậc đem một pháp vào tất cả pháp. đem tất cả pháp vào một pháp mà chẳng hư hoại tướng của pháp.
Là chỗ ở của bậc đem một chúng sanh vào tất cả chúng sanh, đem tất cả chúng sanh vào một chúng sanh mà không hư tướng chúng sanh.
Là chỗ ở của bậc đem một Phật vào tất cả Phật, đem tất cả Phật vào một Phật, mà chẳng hoại tướng Phật.
Là chỗ ở của bậc ở trong một niệm mà biết tất cả tam thế.
Là chỗ ở của bậc trong khoảng một niệm qua đến tất cả quốc độ.
Là chỗ ở của bậc hiện thân mình ra trước tất cả chúng sanh.
Là chỗ ở của bậc tâm thường lợi ích tất cả thế gian.
Là chỗ ở của bậc hay đến khắp tất cả chỗ.
Là chỗ ở của bậc dầu đã thoát ly tất cả thế gian, nhưng vì hóa độ chúng sanh nên hằng hiện thân ở trong thế gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng chấp lấy tất cả cõi, nhưng vì cúng dường chư Phật mà du hành tất cả cõi.
Là chỗ ở của bậc chẳng động bổn xứ, mà có thể đến khắp tất cả Phật độ để trang nghiêm.
Là chỗ ở của bậc thân cận tất cả Phật mà chẳng khởi Phật tưởng.
Là chỗ ở của bậc y chỉ tất cả thiện-tri-thức mà chẳng khởi thiện-tri-thức tưởng.
Là chỗ ở của bậc ở tất cả ma-cung mà chẳng đắm nhiễm cảnh dục.
Là chỗ ở của bậc rời hẳn tất cả tâm tưởng.
Là chỗ ở của bậc dầu hiện thân trong tất cả chúng sanh mà không có quan niệm mình người riêng khác.
Là chỗ ở của bậc hay vào khắp tất cả thế giới mà đối với pháp giới không có tưởng sai biệt.
Là chỗ ở của bậc nguyện trụ tất cả kiếp vị lai, nhưng đối với kiếp số không có quan niệm thời dài vắn.
Là chỗ ở của bậc chẳng rời chỗ một đầu sợi lông mà hiện thân khắp tất cả thế giới.
Là chỗ ở của bậc hay diễn thuyết những pháp khó được gặp được nghe.
Là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp thậm thâm, pháp không hai, pháp vô tướng, pháp không đối trị, pháp vô sở đắc, pháp không hí luận.
Là chỗ ở của bậc trụ đại từ đại bi.
Là chỗ ở của bậc đã vượt hẳn trí nhị thừa, đã siêu cảnh giới ma, đã không nhiễm thế pháp, đã đến bờ của Bồ Tát đã đến, đã trụ nơi chỗ trụ của Như Lai.
Là chỗ ở của bậc dầu rời tất cả tướng mà chẳng nhập chánh vị của Thanh Văn, dầu rõ tất cả pháp vô sanh mà cũng chẳng trụ pháp tánh vô sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán bất tịnh mà chẳng chứng pháp ly tham cũng chẳng cùng chung với tham dục, dầu tu hạnh từ mà chẳng chứng pháp ly sân cũng chẳng cùng chung với sân hận, dầu quán duyên khởi mà chẳng chứng pháp ly si cũng chẳng cùng chung với si hoặc.
Là chỗ ở của bậc dầu trụ tứ thiền mà chẳng tùy thiền sanh, dầu tu hành tứ vô lượng tâm nhưng vì hóa độ chúng sanh nên chẳng sanh cõi sắc, dầu tu vô sắc định nhưng vì đại bi nên chẳng trụ cõi vô sắc.
Là chỗ ở của bậc dầu siêng tu chỉ quán nhưng vì hóa độ chúng sanh nên chẳng chứng quả giải thoát, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự hóa độ chúng sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán không mà chẳng khởi không kiến, dầu hành vô tướng mà thường giáo hóa chúng sanh chấp tướng, dầu hành vô nguyện mà chẳng bỏ hạnh nguyện vô thượng Bồ đề.
Là chỗ ở của bậc dầu ở trong tất cả nghiệp phiền não mà vẫn tự tại, vì để hóa độ chúng sanh nên tùy thuận các nghiệp phiền não, dầu không sanh tử mà vì hóa độ chúng sanh nên thị hiện thọ sanh tử, dầu đã rời tất cả loài mà vì hóa độ chúng sanh nên thi hiện vào các loài.
Là chỗ ở của bậc dầu thật hành hạnh từ mà không ái luyến chúng sanh, dầu thật hành hạnh bi mà không chấp trước chúng sanh, dầu thật hành hạnh hỉ mà thường ai mẫn chúng sanh khổ, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự lợi ích cho người khác.
Là chỗ ở của bậc dầu hành cửu thứ đệ định mà chẳng nhàm lìa thọ sanh dục giới, dầu biết tất cả pháp vô sanh vô diệt mà chẳng tác chứng nơi thiệt tế, dầu nhập ba môn giải thoát mà chẳng lấy quả giải thoát của Thanh Văn, dầu quán tứ thánh đế mà chẳng trụ quả Tiểu thừa, dầu quán duyên khởi thậm thâm mà chẳng trụ rốt ráo tịch diệt, dầu tu bát thánh đạo mà chẳng cầu thoát hẳn thế gian, dầu siêu phàm phu địa mà chẳng sa Thanh Văn Bích Chi Phật Địa, dầu quán ngũ thủ uẩn mà chẳng diệt hẳn các uẩn, dầu siêu xuất tứ ma mà chẳng phân biệt các ma, dầu chẳng chấp lục xứ mà chẳng dứt hẳn lục xứ, dầu an trụ chân như, mà chẳng đọa thiệt tế, dầu nói tất cả thừa mà chẳng bỏ đại thừa.
Bấy giờ Thiện Tài nói kệ rằng :
Lâu các đây là chỗ ở của
Đức Từ Thị lợi ích thế gian
Quán đảnh đại bi thanh tịnh trí
Pháp Vương Tử nhập Như Lai cảnh
Tất cả phật tử có tiếng tăm
Đã nhập môn giải thoát đại thừa.
Du hành pháp giới tâm không nhiễm
Bậc vô đẳng ở lâu các nầy.
Thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, trí, huệ,
Phương tiện, nguyện, lực và thần thông.
Những bậc đầy đủ đại thừa hạnh
Mười Ba la mật ở lầu nầy,
Trí huệ rộng lớn như hư không
Khắp biết tam thế tất cả pháp
Vô ngại, vô y, không chấp lấy
Biết rõ các cõi ở lầu nầy.
Khéo biết rõ được tất cả pháp
Không tánh, không sanh, không sở y.
Như chim bay không, được tự tại
Bậc có đại trí ở lầu nầy
Biết rõ phiền não chân thật tánh
Phân biệt nhơn duyên hư vọng khởi
Cũng chẳng nhàm nó mà cầu ra
Lầu nầy của bậc tịch tịnh ở.
Ba môn giải thoát, tám thánh đạo
Các uẩn, xứ, giới và duyên khởi
Đều hay quán sát chẳng nhập diệt
Bậc thiện xảo đây ở lầu nầy.
Mười phương quốc độ và chúng sanh
Dùng trí vô ngại đều quán sát
Biết tánh đều không chẳng phân biệt
Bậc chứng tịch diệt ở lầu nầy.
Đi khắp pháp giới đều vô ngại
Mà cầu tánh đi chẳng thể được
Như gió trong không chẳng chỗ đi
Lầu nầy của bậc vô y ở.
Thấy khắp ác đạo loài quần sanh
Chịu những khổ độc không nơi về
Phóng đại từ quang đều trừ diệt
Lầu nầy của bậc Từ Mẫn ở.
Thấy các chúng sanh mất chánh đạo
Như kẻ đui mù đi đường hiểm
Dẫn họ vào thẳng thành giải thoát
Lầu nầy của bậc Đạo Sư ở.
Thấy các chúng sanh vào lưới ma
Sanh lão bệnh tử thường bức bách.
Cứu họ thoát khổ được an vui
Lầu nầy của bậc Dũng Kiện ở.
Thấy các chúng sanh mang phiền não
Nên sanh lòng bi mẫn quảng đại
Dùng thuốc trí huệ đều trừ diệt
Lầu nầy của bậc Y Vương ở.
Thấy các quần sanh chìm biển khổ
Nổi trôi chịu bao sanh tử khổ
Đều dùng pháp thuyền cứu vớt họ
Lầu nầy của bậc khéo độ ở.
Thấy các chúng sanh tại phiền não
Hay phát tâm Bồ đề diệu bửu
Đều vào trong đó để cứu họ
Lầu nầy của bậc khéo vớt ở.
Hằng dùng cặp mắt đại từ bi
Quán khắp tất cả các chúng sanh
Cứu họ thoát khỏi biển sanh tử
Lầu nầy của Kim Sý Vương ở.
Như vầng nhật nguyệt tại hư không
Tất cả thế gian được soi sáng
Ánh-sáng trí huệ cũng như vậy
Lầu nầy của bậc Chiếu Thế ở
Bồ-Tát vì độ một chúng sanh
Khắp cả vị lai vô lượng kiếp
Vì độ tất cả cũng như vậy
Lầu nầy của bậc Cứu Thế ở.
Tại một quốc-độ cứu chúng sanh
Tận vị lai kiếp không thôi nghỉ
Mỗi mỗi quốc độ đều như vậy
Lầu nầy của bậc Kiên Cố ở.
Chánh pháp của chư Phật diễn nói
Bồ Tát nghe lãnh đều khắp hết
Suốt kiếp vị lai đều vậy cả
Lầu nầy của bậc trí hải ở.
Đi khắp tất cả thế giới hải
Vào khắp tất cả đạo tràng hải
Cúng dường tất cả Như Lai hải
Lầu nầy của bậc tu hành ở.
Tu hành tất cả diệu hạnh hải
Phát khởi vô biên đại nguyện hải
Như vậy trải qua những kiếp hải
Lầu nầy của bậc công đức ở.
Chỗ một đầu lông vô lượng cõi
Phật, chúng sanh, kiếp bất khả thuyết
Thấy rõ như vậy đều cùng khắp
Lầu nầy cũa bậc vô ngại nhãn.
Một niệm nhiếp khắp vô biên kiếp
Quốc độ, chư Phật và chúng sanh
Trí huệ vô ngại đều chánh biết
Lầu nầy của bậc đủ đức ở.
Mười phương quốc độ nghiền làm bụi
Tất cả đại hải dùng lông chấm
Bồ-Tát phát nguyện số như vậy
Lầu nầy của bậc vô-ngại ở.
Thành tựu tổng trì môn tam muội
Đại nguyện thiền định và giải thoát
Mỗi mỗi đều trụ vô biên kiếp
Lầu nầy của bậc chân Phật Tử.
Vô lượng vô biên các Phật Tử
Luôn luôn thuyết pháp độ chúng sanh
Cũng nói thế gian các kỹ thuật
Lầu nầy của bậc tu hành ở.
Thành tựu thần thông trí phương tiện
Tu hành như huyễn diệu pháp môn
Mười phương ngũ thú đều hiện sanh
Lầu nầy của bậc vô ngại ở.
Bồ Tát bắt đầu sơ phát tâm
Tu hành đầy đủ tất cả hạnh
Hóa thân vô lượng khắp pháp giới
Lầu nầy của bậc thần lực ở.
Một niệm thành tựu đạo Bồ đề
Làm khắp vô biên hạnh trí huệ
Thế tình suy toán rối loạn tâm
Lầu nầy của bậc nan lượng ở.
Thành tựu thần thông không chướng ngại
Du hành pháp giới đều cùng khắp
Nơi tâm chưa từng có sở đắc
Lầu nầy của bậc tịnh huệ ở.
Bồ Tát tu hành huệ vô ngại
Vào các quốc độ không nhiễm trước
Dùng trí vô nhị chiếu khắp nơi
Lầu nầy của bậc vô ngã ở.
Biết rõ các pháp không y chỉ
Bổn tánh tịch diệt đồng hư không
Thường đi trong cảnh giới như vậy
Lầu nầy của bậc ly cấu ở
Thấy khắp quần sanh chịu khốn khổ
Phát tâm nhơn từ đại trí huệ
Nguyện thường lợi ích các thế gian
Lầu nầy của bậc bi mẫn ở.
Phật Tử ở lầu nầy
Hiện khắp chỗ chúng sanh
Dường như vầng nhật nguyệt
Khắp trừ tối thế gian.
Phật Tử ở lầu nầy
Thuận khắp tâm chúng sanh
Biến hiện vô lượng thân
Sung mãn mười phương cõi.
Phật Tử ở lầu nầy
Đi khắp các thế giới
Tất cả chỗ Như Lai
Vô lượng vô số kiếp.
Phật Tử ở lầu nầy
Tư lương các phật pháp
Vô lượng vô số kiếp
Tâm không hề nhàm mỏi.
Phật Tử ở lầu nầy
Niệm niệm nhập tam muội
Mỗi mỗi môn tam muội
Xiển minh cảnh giới Phật
Phật Tử ở lầu nầy
Đều biết tất cả cõi
Vô lượng vô số kiếp
Danh hiệu Phật, chúng sanh
Phật Tử ở lầu nầy
Một niệm nhiếp các kiếp
Chỉ tùy tâm chúng sanh.
Mà không lòng phân biệt.
Phật Tử ở lầu nầy
Tu tập các tam muội
Trong mỗi mỗi tâm niệm
Biết rõ pháp tam thế.
Phật Tử ở lầu nầy
Kiết già thân bất động
Hiện khắp tất cả cõi
Trong tất cả các loài
Phật-Tử ở lầu nầy
Uống nước biển phật pháp
Vào sâu biển trí huệ
Đầy đủ biển công đức
Phật Tử ở lầu nầy
Biết rõ số các cõi
Số đời, số chúng sanh
Số phật danh cũng vậy
Phật Tử ở lầu nầy
Một niệm đều biết rõ
Trong tất cả tam thế
Quốc độ thành hay hoại
Phật Tử ở lầu nầy
Biết rõ hạnh nguyện Phật
Bồ Tát hạnh tu hành
Chúng sanh, căn, tánh, dục
Phật Tử ở lầu nầy
Thấy trong một vi trần
Vô lượng cõi đạo tràng
Chúng sanh và các kiếp
Như trong một vi trần
Tất cả trần cũng vậy
Các thứ đều đầy đủ
Xứ xứ đều vô ngại
Phật Tử trụ ở đây
Quán khắp tất cả pháp
Chúng-sanh, cõi và đời
Không sanh, không sở hữu.
Quán sát những chúng sanh
Chánh pháp và Như Lai
Quốc độ cùng chí nguyện
Tam thế đều bình đẳng.
Phật Tử ở lầu nầy
Giáo hóa các quần sanh
Cúng dường chư Như Lai
Tư duy các pháp tánh.
Vô lượng ngàn muôn kiếp
Tu tập nguyện, trí, hạnh
Rộng lớn chẳng thể lường
Tán dương chẳng thể hết.
Các bậc đại dũng mãnh
Chỗ làm không chướng ngại
An trụ ở trong đây
Tôi chắp tay kính lễ.
Trưởng tử của chư Phật
Đức Di Lặc Bồ Tát
Nay tôi cung kính lễ
Cúi xin thương tưởng tôi.
Sau khi dùng vô lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ Tát ở trong đại lâu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm, Thiện Tài cung kính đảnh lễ nhất tâm nguyện thấy Di Lặc Bồ Tát để thân cận cúng dường, bèn thấy đức Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đến, vô lượng Thiên, Long, Bát Bộ, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương cùng vô lượng thân quyến và vô số chúng sanh theo Di Lặc Bồ Tát.
Thiện Tài vui mừng hớn hở, gieo mình mọp lạy.
Di Lặc Bồ Tát quán sát Thiện Tài, chỉ thị với đại chúng về công đức của Thiện Tài mà nói kệ rằng :
Đại chúng xem Thiện Tài
Tâm trí huệ thanh tịnh
Vì cầu hạnh Bồ đề
Nên đến lầu của ta
Lành thay viên mãn từ !
Lành thay thanh tịnh bi !
Lành thay tịch diệt nhãn !
Tu hành không lười mỏi.
Lành thay thanh tịnh ý !
Lành thay quảng đại tâm !
Lành thay bất thối căn !
Tu hành không lười mỏi.
Lành thay bất động hạnh !
Thường cầu Thiện tri thức
Thấu rõ tất cả pháp
Điều phục các quần sanh.
Lành thay hành diệu đạo !
Lành thay trụ công đức !
Lành thay xu Phật quả !
Chưa từng có mỏi nhọc.
Lành thay đức làm thể
Lành thay pháp tư nhuận
Lành thay vô biên hạnh
Thế gian khó được thấy.
Lành thay lìa mê hoặc
Thế pháp chẳng nhiễm được
Lợi, suy, chê, khen thảy
Tất cả không phân biệt
Lành thay chí an lạc
Điều nhu kham được độ
Tâm siểm cuống sân mạn
Tất cả đều trừ diệt.
Lành thay chân Phật Tữ
Đến khắp cả mười phương
Thêm lớn các công đức
Điều nhu không lười mỏi.
Lành thay tam thế trí
Biết khắp tất cả pháp
Khắp sanh tạng công đức
Tu hành chẳng mỏi nhàm
Văn Thù, đức Vân thảy
Tất cả các Phật Tử
Bảo ngươi đến gặp ta
Dạy ngươi chỗ vô ngại
Tu đủ hạnh Bồ tát
Nhiếp khắp các quần sanh
Người quảng đại như đây
Nay đến tìm gặp ta
Vì cầu những cảnh giới
Thanh-tịnh của Như Lai
Nên hỏi nguyện quảng đại
Nay đến tìm gặp ta.
Phật quá, hiện, vị lai
Đã thành tựu công hạnh
Người muốn tu học cả
Nay đến tìm gặp ta.
Với chư thiện tri thức
Ngươi cầu pháp vi diệu
Muốn thọ bồ tát hạnh
Nay đến tìm gặp ta.
Ngươi nghĩ Thiện tri thức
Được chư Phật khen ngợi
Làm cho người thành đạo
Nay đến tìm gặp ta.
Ngươi nghĩ Thiện tri thức
Như cha mẹ sanh thành
Nuôi nấng như nhũ mẫu
Lớn Bồ đề cho mình,
Như y sư trị bệnh,
Như trời rưới cam lộ,
Như mặt nhựt soi đường,
Như mặt nguyệt thanh tịnh,
Như núi vững không lay,
Như biển không tăng giảm,
Như lái thuyền tế độ,
Nay tìm đến gặp ta.
Ngươi xem Thiện tri thức
Dường như tướng dũng mãnh
Cũng như chủ thương gia
Lại như đại Đạo Sư,
Hay dựng tràng chánh pháp,
Hay bày Phật công đức,
Hay diệt các ác đạo,
Hay mở cửa đường lành,
Hay hiển thân chư Phật,
Hay gìn tạng chư Phật
Hay giữ pháp chư Phật,
Nên ngươi nguyện kính thờ.
Muốn đủ trí thanh tịnh
Muốn đầy thâm đoan chánh
Muốn sanh nhà tôn quý
Nay ngươi đến gặp ta.
Đại chúng xem người nầy
Gần gũi Thiện tri thức
chỗ người nầy tu học
tất cả phải thuận hành.
Do phước duyên thuở trước
Văn Thù khiến phát tâm
Tùy thuận không trái nghịch
Tu hành chẳng mỏi nhọc
Cha mẹ cùng thân thuộc
Cung điện và tài sản
Tất cả đều bỏ lìa
Khiêm hạ cầu tri thức
Tịnh trị ý như vậy
Rời hẳn thân thế gian
Thường sanh cõi nước Phật
Hưởng quả báo thù thắng.
Thiện Tài thấy chúng sanh
Khổ sanh, già, bệnh, chết
Vì phát ý đại bi
Siêng tu đạo vô thượng
Thiện Tài thấy chúng sanh
Ngũ thú thường lưu chuyển
Vì cầu kim cang trí
Để phá những khổ luân,
Thiện Tài thấy chúng sanh
Tâm điền rất hoang sơ
Vì trừ gai tam độc
Chuyên cầu cày trí bén.
Chúng sanh ở si tối
Đui mù mất chánh đạo
Thiện Tài làm đạo sư
Chỉ cho chỗ an ổn.
Giáp nhẫn, xe giải thoát,
Trí huệ làm gương bén
Hay ở trong ba cõi
Phá các giặc phiền não.
Thiện Tài lái thuyền pháp
Tế độ khắp hàm thức
Vượt qua biển lửa dữ
Mau đến xứ tịnh bửu.
Thiện Tài mặt nhật sáng
Vầng trí quang đại nguyện
Đi khắp pháp giới không
Chiếu khắp nhà quần mê
Thiện Tài mặt nguyệt sáng
Pháp lành đều viên mãn
Từ tam-muội thanh lương
Chiếu khắp tâm chúng sanh.
Thiện Tài biển thắng trí
An trụ nơi trực tâm
Hạnh Bồ đề lần sâu
Xuất sanh những pháp bửu
Thiện Tài rồng đại tâm
Bay lên pháp giới không
Nổi mây tuôn mưa ngọt
Sanh thành tất cả quả.
Thiện Tài thắp đèn pháp
Tim : tin, dầu : từ bi,
Bình : niệm, sáng : công đức
Diệt trừ tối tam độc
Giác tâm : ca la lã,
Bi : bào thai, từ : thịt,
Bồ đề phần : chi tiết
Lớn nơi Như lai tạng
Thêm lớn phước đức tạng,
Thanh tịnh trí huệ tạng,
Khai hiển phương tiện tạng
Xuất sanh đại nguyện tạng
Đại trang nghiêm như vậy
cứu hộ các quần sanh
Trong tất cả thiên nhơn
Khó nghe khó thấy được,
Cây trí huệ như vậy
Rễ sâu chẳng lay động
Công hạnh lần tăng trưởng
Che mát khắp quần sanh
Muốn sanh tất cả đức
Muốn hỏi tất cả pháp
Muốn dứt tất cả nghi
Chuyên cầu Thiện tri thức.
Muốn phá những ma hoặc
Muốn trừ những kiến chấp
Muốn mở trói chúng sanh
Chuyên cầu Thiện tri thức.
Phải diệt các ác đạo,
Phải chỉ đường nhơn thiên,
Khiến ta công đức hạnh
Mau nhập thành niết bàn,
Phải độ nạn chấp kiến,
Phải cắt lưới chấp kiến,
Phải khô nước aí dục.
Phải chỉ đường ba cõi,
Phải làm chỗ đời nương
Phải làm sáng đời soi
Phải làm thầy ba cõi
Chỉ cho chỗ giải thoát.
Cũng phải khiến thế gian
Lìa tất cả tưởng chấp
Đánh thức giấc phiền não
Thoát bùn lầy aí dục.
Phải biết tất cả pháp,
Phải tịnh tất cả cõi
Tất cả đều rốt ráo
Trong lòng rất hoan hỉ.
Hạnh ngươi rất điều nhu
Tâm người rất thanh tịnh
Những công đức muốn tu
Tất cả sẽ viên mãn.
Ngươi sẽ thấy chư Phật
Thấu rõ tất cả pháp
Nghiêm tịnh tất cả cõi
Thành tựu đại Bồ đề.
Sẽ viên mãn hạnh hải
Sẽ thấu rõ pháp hải
Sẽ độ chúng sanh hải
Tu các hạnh như vậy.
Sẽ đến bờ công đức
Sẽ sanh những thiện phẩm
Sẽ đồng chư Phật Tử
Tâm quyết định như vậy.
Sẽ dứt tất cả hoặc
Sẽ sạch tất cả nghiệp
Sẽ phục tất cả ma
Đầy đủ nguyện như vậy.
Sẽ sanh diệu trí đạo
Sẽ khai chánh pháp đạo
Chẳng lâu sẽ bỏ rời
Hoặc, nghiệp và khổ đạo.
Tất cả chúng sanh luân
Trầm mê tam hữu luân
Ngươi sẽ chuyển pháp luân,
Cho họ hết khổ luân.
Ngươi sẽ gìn phật chủng
Ngươi sẽ tịnh pháp chủng
Ngươi hay họp tăng chủng
Tam thế đều cùng khắp.
Sẽ cắt những lưới aí
Sẽ xé những lưới chấp
Sẽ cứu những lưới khổ
Sẽ thành những lưới nguyện.
Sẽ độ chúng-sanh giới
Sẽ tịnh quốc độ giới
Sẽ chứa trí tuệ giới
Sẽ thành tâm nguyện giới.
Sẽ làm chúng sanh mừng
Sẽ làm Bồ Tát mừng
Sẽ làm chư Phật mừng
Sẽ thành sự vui mừng.
Sẽ thấy tất cả loài
Sẽ thấy tất cả cõi
Sẽ thấy tất cả pháp
Sẽ thành thấy của Phật.
Sẽ phóng sáng phá tối
Sẽ phóng sáng dứt nóng
Sẽ phóng sáng diệt ác
Trừ sạch khổ ba cõi.
Sẽ mở cửa thiên đạo
Sẽ mở cửa Phật đạo
Sẽ chỉ cửa giải thoát
Sẽ bảo chúng sanh vào
Sẽ chỉ cho chánh đạo
Sẽ dứt hết tà đạo
Như vậy siêng tu hành
Thành tựu bồ đề đạo
Sẽ độ tam hữu hải
Khiến khắp chúng sanh hải
Thoát khỏi những khổ hải.
Phải nơi chúng sanh hải
Tiêu kiệt phiền não hải
Khiến tu những hạnh hải
Mau vào đại trí hải
Ngươi sẽ thêm trí hải
Ngươi sẽ tu hạnh hải
Ngươi sẽ dều dầy đủ
Chư Phật đại nguyện hải.
Ngươi sẽ nhập sát hải
Ngươi sẽ quán chúng hải
Ngươi sẽ dùng trí lực
Uống tất cả pháp-hải.
Sẽ thấy chư phật vân
Sẽ khởi cúng dường vân
Sẽ nghe diệu pháp vân
Sẽ nổi những nguyện vân.
Đi khắp nhà ba cõi
Phá khắp nhà phiền não
vào khắp nhà Như Lai
Sẽ hành đạo như vậy
Vào khắp môn tam muội
Dạo khắp môn giải thoát
Trụ khắp môn thần thông
Đi khắp trong pháp giới.
Hiện khắp trước chúng sanh
Đối trước khắp chư Phật
Ví như sáng nhật nguyệt
Sẽ thành sức như vậy
Chỗ đi không động loạn
Chỗ đi không nhiễm trước
Như chim bay hư không
Sẽ thành diệu dụng nầy.
Ví như phạm thiên võng
Sát võng trụ như vậy
Ngươi sẽ đều qua đến
Như gió không chướng ngại
Ngươi sẽ nhập pháp giới
Qua khắp các thế giới
Thấy khắp tam thế Phật
Trong lòng rất hoan hỉ
Ngươi ở các pháp môn
Đã được và sẽ được
Phải vui mừng hớn hở
Không tham cũng không nhàm.
Ngươi là công đức khí
Hay thuận lời Phật dạy
Hay tu hạnh Bồ tát
Được thấy sự lạ nầy
Chư Phật Tử như vậy
Ức kiếp khó gặp được
Huống thấy được công đức
Và diệu đạo đã tu.
Ngươi sanh trong nhơn gian
Được những lợi lành lớn
Được thấy đức Văn Thù
Vô lượng công đức lớn
Đã rời các ác đạo
Đã ra khỏi chỗ nạn
Đã vượt khỏi khổ hoạn
Lành thay ! chớ giải đãi.
Đã rời phàm phu địa
Đã trụ Bồ tát địa
Sẽ đầy trí huệ địa
Mau nhập như lai địa.
Bồ tát hạnh như biển
Phật trí đồng hư không
Nguyện của ngươi cũng vậy
Nên sanh lòng vui mừng.
Các căn chẳng lười trễ
Trí nguyện hằng quyết định
Thân cận thiện tri thức
Chẳng lâu sẽ thành mãn.
Bồ Tát nhiều công hạnh
Đều vì độ chúng sanh
Làm khắp các pháp môn
Cẩn thận chớ nghi hoặc
Ngươi đủ phước nan tư
Và cùng chân thiệt tín
Vì thế nên hôm nay
Được thấy các Phật Tử.
ngươi thấy các Phật Tử
đều được lợi rộng lớn
mỗi mỗi những đại nguyện
tất cả đều tin thọ.
Ngươi ở trong ba cõi
Hay tu hạnh bồ tát
Thế nên các Phật Tử
Dạy cho môn giải thoát
Người chẳng phải pháp khí
Cùng ở với Phật Tử
Dầu đến vô lượng kiếp
Cũng chẳng biết cảnh giới.
Ngươi thấy các Bồ Tát
Được nghe pháp như vậy
Thế gian rất khó có
Nên sanh lòng vui mừng.
Chư Phật hộ niệm ngươi
Bồ Tát nhiếp thọ ngươi
Thuận hành theo lời dạy
Lành thay trụ thọ mạng.
Đã sanh nhà Bồ Tát
Đã đủ đức Bồ Tát
Đã lớn giống Như Lai
Sẽ lên bậc Quán Đảnh.
Chẳng lâu ngươi sẽ được
Đồng với chư Phật Tử
Thấy chúng sanh khổ não
Đều đặt chỗ an ổn.
Đã gieo giống như vậy
Sẽ gặt trái như vậy
Nay ta khen tặng ngươi
Nên sanh lòng vui đẹp.
Vô-lượng chư Bồ Tát
Hành đạo vô lượng kiếp
Chưa thành được hạnh nầy
Nay ngươi đều được trọn.
Thiện Tài thành những hạnh :
Tín, nguyện, kiên, tấn, lực,
Ai có lòng kính mộ
Cũng phải học như vậy.
Tất cả công đức hạnh
Đều từ tâm nguyện sanh
Thiện Tài đã biết rõ
Thường thích siêng tu học.
Như rồng bủa mây dầy
Tất sẽ tuôn mưa lớn
Bồ Tát khởi nguyện trí
Quyết định tu công hạnh.
Nếu có thiện tri thức
Dạy ngươi hạnh Phổ Hiền
Ngươi nên khéo kính thờ
Cẩn thận chớ nghi hoặc.
Ngươi trong vô lượng kiếp
Vì dục vọng bỏ thân
Nay vì cầu bồ đề
Xả thân mới là tốt.
Ngươi trong vô lượng kiếp
Chịu đủ khổ sanh tử
Chẳng từng thờ chư Phật
Chưa nghe hạnh như vậy.
Nay ngươi được thân người
Gặp Phật, Thiện tri thức
Nghe lãnh hạnh Bồ đề
Thế nào chẳng hoan hỉ.
Dầu gặp Phật xuất thế
Cũng gặp Thiện tri thức
Mà lòng chẳng thanh tịnh
Chẳng nghe pháp như vậy.
Nếu nơi thiện tri thức
Tin mến lòng tôn trọng
Lìa nghi chẳng mỏi nhàm
Mới nghe pháp như vậy
Nếu ai nghe pháp nầy
Mà phát lòng thệ nguyện
Phải biết người như vậy
Được lợi ích rộng lớn.
Tâm thanh tịnh như vậy
Thường được gặp chư Phật
Cũng gần chư Bồ Tát
Quyết định thành Bồ đề
Nếu vào pháp môn nầy
Thời đủ các công đức
Lìa hẳn các ác thú
Chẳng thọ tất cả khổ.
Chẳng lâu bỏ thân nầy
Vãng sanh về Phật Độ
Thường thấy thập phương Phật
Và cùng chư Bồ Tát.
Nhơn trước, nay trí huệ
Và nhờ Thiện tri thức
Thêm lớn các công đức
Như nước mọc hoa sen.
Thích thờ Thiện tri thức
Siêng cúng tất cả Phật
Chuyên tâm nghe chánh-pháp
Thường tu chớ lười mỏi.
Ngươi là chân pháp khí
Thường đủ tất cả pháp
Sẽ tu tất cả đạo
Sẽ mãn tất cả nguyện
Ngươi dùng tâm tín giải
Mà đến kính lễ ta
Chẳng lâu sẽ vào khắp
Tất cả phật pháp hội
Lành thay chân Phật Tử
Cung kính tất cả Phật
Chẳng lâu đủ các hạnh
Đến bờ phật công đức.
Ngươi nên mau đến chỗ
Của đại trí Văn Thù
Ngài sẽ khiến ngươi được
Hạnh thâm diệu Phổ Hiền.
Thiện Tài nghe Di Lặc Bồ Tát ở trước đại chúng tán dương công đức tạng quảng đại của mình, liền vui mừng hớn hở, toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào, chắp tay cung kính hữu nhiễu vô lượng vòng. Do sức tưởng niệm đức Văn Thù nên bất giác những hoa anh lạc và diệu bửu bổng nhiên đầy cả hai tay. ThiệnTài liền rải lên cúng dường Di Lặc Bồ Tát.
Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát xoa đầu Thiện Tài mà nói kệ rằng :
Lành thay, lành thay chơn Phật Tử :
Tinh tấn các căn không lười mỏi
Chẳng lâu sẽ đủ các công-đức
Giống như Văn Thù và Di Lặc.
Thiện Tài nói kệ kính thưa :
Tôi nghĩ thiện tri thức
Ức kiếp khó được gặp
Nay đều được thân cận
Và đến gặp được ngài.
Tôi nhờ đức Văn-Thù
Được thấy người khó thấy
Bậc đại công-đức kia
Nguyện sớm về thờ kính.
---- Hán bộ Quyển thứ bảy mươi tám ----
Nói kệ xong, Thiện-Tài chắp tay cung kính thưa Di Lặc Bồ Tát rằng :
Bạch đại thánh ! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Đức Như Lai thọ ký cho Đại Thánh một đời sẽ chứng quả vô thượng chánh giác.
Nếu là một đời sẽ được vô thượng chánh giác thời là đã siêu việt tất cả chỗ sở trụ của Bồ-Tát, thời đã xuất quá tất cả bậc ly sanh của Bồ Tát, thời đã viên mãn tất cả Ba la mật. Thời đã thâm nhập tất cả nhẫn môn, thời đã đầy đủ Bồ tát địa, thời đã du hí tất cả giải thoát môn, thời đã thành tựu tất cả pháp tam muội, thời đã thông đạt tất cả Bồ tát hạnh, thời đã chứng được tất cả Đà la ni biện tài, thời đã ở trong tất cả Bồ tát tự tại mà được tự tại, thời đã chứa nhóm tất cả pháp trợ đạo của Bồ Tát, thời đã du hí trí huệ phương tiện, thời đã xuất sanh trí đại thần thông, thời đã thành tựu tất cả học xứ, thời đã viên mãn tất cả diệu hạnh, thời đã đầy đủ tất cả đại nguyện, thời đã lãnh thọ tất cả ký biệt của Phật, thời đã biết rõ tất cả các thừa môn, thời đã kham thọ chỗ hộ niệm của tất cả chư Phật, thời đã có thể nhiếp tất cả phật Bồ đề, thời đã có thể trì pháp tạng của tất cả Phật, thời đã có thể trì tạng bí mật của tất cả chư Phật và Bồ Tát, thời đã có thể làm thượng thủ trong tất cả chúng Bồ Tát, thời đã có thể làm đại mãnh tướng phá phiền não ma quân, thời đã có thể làm đại đạo sư ra khỏi đồng hoang sanh tử, thời đã có thể làm đại y vương trị những bệnh nặng phiền não, thời đã có thể làm bậc tối thắng trong tất cả chúng sanh, thời đã có thể được tự tại ở trong tất cả thế chủ, thời đã có thể tối đệ nhứt trong tất cả Thánh, thời đã có thể tối tăng thượng trong tất cả Thanh Văn và Bích Chi Phật, thời đã có thể làm lái thuyền trong biển sanh tử, thời đã có thể bủa lưới điều phục tất cả chúng sanh, thời đã có thể quán căn của tất cả chúng sanh, thời đã có thể nhiếp tất cả chúng sanh-giới, thời đã có thể thủ hộ tất cả chúng Bồ Tát, thời đã có thể luận nghị tất cả bồ tát sự, thời đã có thể qua đến tất cả chỗ Như Lai, thời đã có thể ở trong hội của tất cả Như Lai, thời đã có thể hiện thân ở trước tất cả chúng sanh, thời đã có thể không nhiễm trước tất cả thế pháp, thời đã có thể siêu việt tất cả cảnh giới ma, thời đã có thể an trụ tất cả cảnh giới Phật, thời đã có thể đến cảnh vô ngại của tất cả Bồ Tát, thời đã có thể tinh cần cúng dường tất cả chư Phật, thời đã có thể đồng thể tánh với tất cả phật Pháp, đã cột lụa diệu pháp, đã thọ Phật quán đảnh, đã trụ nhất thiết trí, đã có thể khắp sanh tất cả phật-pháp, đã có thể mau lên bậc nhất thiết trí.
Bạch đại thánh ! Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?
Thế nào tùy chỗ tu học mau được đầy đủ tất cả phật pháp, đều có thể độ thoát chúng sanh đã nhớ đến, có thể thành mãn những đại nguyện đã phát, có thể khắp rốt ráo những hạnh đã khởi, có thể an ủi tất cả thiên nhơn, chẳng phụ tự thân, chẳng dứt tam bảo, chẳng hư tất cả Phật-chủng Bồ Tát chủng, có thể gìn pháp nhãn của tất cả chư Phật ?
Những sự trên đây xin Đại Thánh chỉ dạy cho.
Di Lặc Bồ Tát quán sát tất cả chúng hội nơi đạo tràng, chỉ dạy Thiện Tài rằng :
Nầy đại chúng ! Các ngài thấy Đồng Tử nầy hiện đương hỏi tôi về công đức của Bồ tát hạnh đây chăng ?
Đồng Tử nầy dũng mãnh tinh tấn, chí nguyện không tạp, thâm tâm kiên cố hằng chẳng thối chuyển, đủ những hi vọng thù thắng như chữa dầu cháy không hề nhàm đủ, mến chư thiện tri thức thân cận cúng dường, tìm cầu khắp nơi để kính thờ thỉnh pháp.
Trước đây Đồng Tử nầy thọ giáo nơi đức Văn Thù, rồi lần lượt đi qua phương nam cầu thiện tri thức. Trải qua một trăm mười vị thiện tri thức, nay mới đến đây gặp tôi. Đồng Tử nầy chưa từng có một niệm lười mỏi.
Đồng Tử nầy rất là khó có.
Đồng Tử nầy xu hướng Đại thừa, đi nơi đại huệ, phát đại dũng mãnh, choàng giáp đại bi, dùng tâm đại từ cứu hộ chúng sanh, khởi đại hạnh đại tinh tấn Ba la mật, làm đại thương chủ hộ trợ các chúng sanh, làm thuyền pháp lớn vượt qua biển hữu lậu, trụ ở đại đạo chứa họp pháp bửu lớn. Người như thế rất khó được nghe, rất khó được thấy, rất khó được gần gũi cùng ở cùng đi.
Tại sao vâỵ ? Vì Đồng Tử nầy phát tâm cứu hộ tất cả chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh thoát khổ, khỏi ác thú, rời hiểm nạn, phá vô minh, khỏi sanh tử, dứt các loài, khỏi cảnh ma, chẳng nhiễm thế pháp, ra khỏi aí dục, dứt tham, hết kiến chấp, phá tưởng, tuyệt mê, xô kiêu mạn, trừ phiền não, triệt ngủ nghỉ, xé lưới aí, diệt vô minh, qua khỏi dòng hữu lậu, lìa siểm nịnh, tịnh tâm cấu ra khỏi sanh tử.
Đồng Tử nầy vì những người bị bốn dòng hữu lậu cuốn trôi mà tạo thuyền đại pháp. Vì những người bị sình lầy kiến chấp lún chìm mà lập cầu đại pháp. Vì những người bị si tối làm hôn mê mà thắp đèn đại trí, vì những người đi trong đồng hoan sanh tử mà khai thị Thánh đạo. Vì những người mang bịnh nặng phiền não mà điều hòa pháp dược. Cho người bị khổ sanh lão tử uống cam lộ để được an ổn. Vì người vào trong lửa tham sân si mà tưới định thủy cho họ được thanh lương. Với người nhiều lo sầu thời an ủi cho họ được an. Với người bị nhốt trong ngục hữu lậu thời khuyên bảo họ thoát ra. Với người vào lưới kiến chấp thời mở lưới bằng kiếm trí huệ. Với người ở trong thành tam giới thời chỉ cửa giải thoát. Với người ở chỗ hiểm nạn thời dắt họ đến chỗ an ổn. Với người sợ giặc kiết sử thời cho họ pháp vô úy. Với người đọa ác thú thời trao cho họ tay từ bi. Với người bị hại về ngũ uẩn thời chỉ cho họ thành niết bàn, với người bị ràng buộc trong thập bát giới thời dùng Thánh đạo để mở. Với người đắm nơi trong tụ lạc lục xứ trống rỗng thời dùng ánh sáng trí huệ để dẫn họ ra. Người ở nơi đạo tà thời dùng chánh đạo cứu họ. Người gần ác hữu thời chỉ thiện hữu cho họ. Người ưa phàm pháp thời dạy cho Thánh pháp, người ham sanh tử thời làm cho họ xu hướng thành nhất thiết trí.
Đồng Tử nầy hằng dùng những công hạnh như vậy để cứu hộ chúng sanh, phát Bồ đề tâm chưa từng thôi dứt, cầu đại thừa đạo chưa từng lười mỏi, uống những pháp thủy không lòng nhàm đủ, hằng siêng chứa nhóm hạnh trợ đạo, thường thích tịnh tu tất cả pháp-môn, tu hạnh Bồ tát chẳng bỏ tinh tấn, thành mãn đại nguyện, khéo thật hành phương tiện, luôn muốn được thấy thiện tri thức, kính thờ thiện tri thức thân không lười mỏi, nghe thiện tri thức dạy bảo thời luôn tùy thuận thật hành chưa từng trái nghịch.
Nầy đại chúng ! Nếu chúng sanh nào có thể phát tâm vô-thượng Bồ đề thời là rất hi hữu. Nếu đã phát tâm lại có thể tinh tấn phương tiện chứa nhóm những phật pháp như vậy thời lại càng hi hữu hơn.
Lại có thể cầu bồ-tát đạo như vậy, tịnh Bồ tát hạnh như vậy, thờ Thiện tri thức như vậy, như chữa dầu cháy như vậy, thuận theo lời dạy của Thiện tri thức như vậy, kiên cố tu hành như vậy, chứa nhóm Bồ đề phần như vậy, chẳng cầu tiếng tăm lợi dưỡng như vậy, chẳng bỏ tâm bồ-tát thuần nhứt như vậy, chẳng thích nhà cửa như vậy, chẳng ham dục lạc, chẳng luyến cha mẹ thân thích tri thức, chẳng thích theo cầu Bồ tát bạn lữ, lại có thể chẳng đoái đến thân mạng mà chỉ nguyện siêng tu đạo nhứt thiết trí như vậy, thời nên biết đó là lần lượt càng khó hơn.
Nầy đại chúng ! Chư Bồ Tát khác trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp mới có thể đầy đủ bồ tát hạnh nguyện, mới có thể gần phật Bồ đề.
Đồng Tử nầy trong một đời có thể tịnh phật độ, có thể hóa chúng sanh, có thể dùng trí huệ thâm nhập pháp giới, có thể thành tựu các môn Ba la mật, có thể thêm rộng tất cả hạnh, có thể viên mãn tất cả đại nguyện, có thể siêu xuất tất cả ma nghiệp, có thể thừa sự tất cả thiện hữu, có thể thanh tịnh Bồ tát đạo, có thể đầy đủ những hạnh Phổ Hiền.
Di Lặc Bồ Tát khen ngợi công đức của Thiện Tài làm cho vô lượng trăm ngàn chúng sanh phát tâm Bồ đề, rồi bảo Thiện Tài rằng :
Lành thay, ! lành thay ! Nầy Thiện nam tử ! Ngươi vì lợi ích tất cả thế gian, vì cứu hộ tất cả chúng sanh và siêng cầu tất cả phật pháp, nên phát tâm vô thượng Bồ đề.
Nầy Thiện nam tử ! Ngươi được lợi lành, khéo được thân người, khéo trụ thọ mạng, khéo gặp đức Như Lai xuất hiện, khéo thấy Văn Thù Sư Lợi đại Thiện tri thức, thân của ngươi là thiện khí được những thiện căn đượm nhuần, được pháp lành nuôi lớn, bao nhiêu giải dục đều được thanh tịnh đã được chư Phật đồng hộ niệm, đã được thiện hữu nhiếp thọ.
Tại sao vậy ?
Vì tâm Bồ đề như chủng tử, vì có thể sanh tất cả phật pháp. Bồ-đề tâm như ruộng tốt,
Vì có thể sanh trưởng bạch tịnh pháp cho tất cả chúng sanh. Bồ đề tâm như đại địa vì có thể giữ gìn tất cả thế gian. Bồ đề tâm như tịnh thủy vì có thể rửa sạch phiền não nhơ nhớp. Bồ đề tâm như gió lớn vì vô ngại khắp ở thế gian. Bồ đề tâm như lửa mạnh vì có thể đốt tiêu củi kiến chấp. Bồ đề tâm như tịnh nhật, vì chiếu khắp tất cả thế gian. Bồ đề tâm như mặt nguyệt sáng, vì những pháp bạch tịnh đều viên mãn. Bồ đề tâm như đèn sáng vì có thể phóng những pháp quang minh. Bồ-đề tâm như mắt sáng, vì thấy khắp tất cả chỗ an nguy. Bồ đề tâm dường như con đường lớn, vì dẫn vào thành đại trí. Bồ đề tâm như con đường chánh, vì làm cho rời khỏi tà pháp. Bồ đề tâm như cỗ xe lớn, vì có thể chuyên chở Bồ Tát. Bồ đề tâm như cửa nẻo, vì khai thị tất cả hạnh bồ tát. Bồ đề tâm như cung điện, vì an trụ tu tập pháp tam muội. Bồ đề tâm như khu vườn ở trong đó dạo chơi hưởng pháp lạc. Bồ đề tâm như nhà cửa vì an ổn tất cả chúng sanh. Bồ đề tâm là chỗ về, vì lợi ích tất cả thế gian. Bồ đề tâm là chỗ dựa, vì là dựa nương của những Bồ tát hạnh. Bồ đề tâm như từ phụ, vì dạy dỗ tất cả chư Bồ Tát. Bồ đề tâm như từ mẫu, vì sanh trưởng tất cả Bồ Tát. Bồ đề tâm như nhũ mẫu, vì dưỡng dục tất cả chư Bồ Tát. Bồ đề tâm như thiện hữu, vì thành tựu lợi ích cho chư Bồ Tát. Bồ đề tâm như vua chúa, vì vượt hơn tất cả hàng nhị thừa. Bồ đề tâm như đế vương, vì được tự tại trong tất cả nguyện. Bồ đề tâm như đại hải, vì tất cả công đức đều vào trong đó. Bồ đề tâm như núi Tu Di, vì bình đẳng nơi tâm các chúng sanh. Bồ đề tâm như Thiết Vi, vì nhiếp trì tất cả thế gian. Bồ đề tâm như Tuyết Sơn vì sanh lớn tất cả cây thuốc trí huệ. Bồ đề tâm như Hương Sơn, vì xuất sanh tất cả hương công đức, Bồ đề tâm như hư không, vì những diệu công đức rộng vô biên. Bồ đề tâm như liên hoa, vì chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian. Bồ-đề tâm như voi thông minh thuần thục, vì tâm ấy thuận lành chẳng ngang trái. Bồ đề tâm như ngựa hiền hay, vì xa lìa tất cả những tánh ác. Bồ đề tâm như điều ngự sư, vì thủ hộ tất cả pháp đại thừa. Bồ đề tâm như thuốc hay, vì trị được tất cả bệnh phiền não. Bồ đề tâm như hố sâu, vì có thể làm sụp đổ tất cả những ác pháp. Bồ đề tâm như kim cang, vì đều có thể xuyên thấu tất cả các pháp. Bồ đề tâm như trấp hương vì có thể đựng tất cả hương công đức. Bồ đề tâm như diệu hoa, vì tất cả thế gian đều ưa thấy. Bồ đề tâm như bạch chiên đàn, vì trừ những nóng tham dục làm cho mát mẻ. Bồ-đề tâm như hắc-trầm-hương vì có thể xông khắp pháp giới. Bồ đề tâm như thiện-kiến dược vương, vì phá được tất cả bệnh phiền não. Bồ đề tâm như thuốc tỳ cấp ma, vì nhổ được tất cả hoặc tiễn. Bồ đề tâm như Đế Thích vì là tối tôn trong tất cả vua chúa. Bồ đề tâm như Tỳ Sa Môn vì dứt được tất cả khổ nghèo cùng. Bồ đề tâm như Công Đức Thiên, vì trang nghiêm với tất cả công đức. Bồ đề tâm như đồ trang nghiêm, vì trang nghiêm tất cả chư Bồ Tát. Bồ đề tâm như kiếp hỏa đốt cháy, vì có thể cháy tiêu tất cả hữu vi. Bồ đề tâm như thuốc vô sanh căn, vì trưởng dưỡng tất cả phật pháp. Bồ đề tâm như long châu vì tiêu được tất cả độc phiền não. Bồ đề tâm như thủy thanh châu, vì có thể thanh tất cả phiền não trược. Bồ đề tâm như châu như ý, vì châu cấp cho tất cả kẻ nghèo thiếu. Bồ đề tâm như bình công đức, vì làm cho tâm chúng sanh được thỏa mãn. Bồ đề tâm như cây như ý, vì có thể mưa tất cả đồ trang nghiêm. Bồ đề tâm như áo lông ngỗng, vì chẳng dính bụi sanh tử. Bồ đề tâm như chỉ bạch điệp vì bổn lai tánh thanh-tịnh. Bồ đề tâm như lưỡi cày bén, vì có thể dọn tất cả ruộng chúng-sanh. Bồ-đề tâm như na la diên, vì có thể dẹp tất cả kẻ địch ngã kiến. Bồ đề tâm như mũi tên đi mau, vì phá được tất cả đích khổ. Bồ đề tâm như ngọn mâu nhọn, vì có thể xuyên thủng giáp phiền não. Bồ đề tâm như giáp cứng, vì có thể hộ tâm như lý. Bồ đề tâm như dao bén, vì có thể chặt tất cả đầu phiền não. Bồ đề tâm như gươm bén, vì có thể chặt dứt tất cả giáp kiêu mạn. Bồ đề tâm như dũng tướng tràng, vì có thể dẹp phục tất cả ma quân. Bồ-đề tâm như cưa bén, vì có thể cưa đứt tất cả cây vô minh. Bồ đề tâm như búa bén, vì có thể chặt những cây khổ. Bồ đề tâm như binh khí, vì có thể đề phòng nạn khổ. Bồ đề tâm như cánh tay giỏi, vì phòng hộ tất cả những pháp độ thân, Bồ đề tâm như đôi chân tốt, vì an lập tất cả những công đức. Bồ đề tâm như thuốc chữa mắt, vì diệt trừ tất cả bệnh lòa vô minh. Bồ đề tâm như kìm nhiếp, vì có thể nhổ tất cả gai thân kiến. Bồ đề tâm như ngọa cụ vì dứt trừ những lao khổ sanh tử. Bồ đề tâm như Thiện tri thức, vì có thể mở tất cả dây trói sanh tử. Bồ đề tâm như tài bửu, vì trừ tất cả sự nghèo cùng. Bồ đề tâm như chư đại đạo sư, vì khéo biết đạo xuất yếu của Bồ-Tát. Bồ-đề tâm như phục-tạng, vì xuất sanh của công đức không thiếu. Bồ đề tâm như nước suối trào, vì sanh nước trí huệ không cùng tận. Bồ đề tâm như gương sáng, vì hiện khắp tất cả tượng pháp môn. Bồ đề tâm dường như liên hoa, vì chẳng nhiễm tất cả tội cấu. Bồ đề tâm như sông lớn, vì chảy dẫn ra tất cả nhiếp pháp độ pháp. Bồ đề tâm như đại Long Vương, vì có thể mưa tất cả diệu pháp. Bồ đề tâm dường như mạng căn, vì nhậm trì thân đại bi của Bồ Tát. Bồ đề tâm như cam lộ vì có thể làm cho an trụ nơi cõi bất tử. Bồ đề tâm như tấm lưới lớn, vì nhiếp khắp tất cả những chúng sanh. Bồ đề tâm như lưới chài, vì nhiếp lấy tất cả kẻ đáng được hóa độ. Bồ đề tâm như câu mồi, vì bắt những kẻ ở trong vực hửu lậu. Bồ đề tâm như thuốc a già đà, vì có thể làm cho người vô bệnh vĩnh viễn được an ổn. Bồ đề tâm như thuốc trừ độc, vì có thể tiêu hết độc tham ái. Bồ đề tâm như người trì chú giỏi, vì có thể trừ tất cả độc điên đảo. Bồ đề tâm như gió mạnh, vì có thể thổi cuốn tất cả sương mù che chướng. Bồ đề tâm như xứ châu bửu, vì xuất sanh tất cả báu giác phần. Bồ đề tâm như chủng tánh tốt, vì xuất sanh tất cả pháp tịnh. Bồ đề tâm như nhà ở, vì là chỗ ở của những pháp công đức. Bồ đề tâm như thị tứ, vì là chỗ đổi chác của thương gia Bồ Tát. Bồ đề tâm như thuốc luyện vàng, vì có thể trị tất cả cặn phiền não. Bồ đề tâm như mật tốt, vì viên mãn tất cả vị công-đức. Bồ đề tâm như chánh đạo, vì khiến chư Bồ Tát vào trí thành. Bồ đề tâm như chậu tốt, vì có thể đựng tất cả pháp bạch tịnh. Bồ đề tâm như mưa phải thời, vì có thể trừ tất cả bụi phiền não. Bồ đề tâm là chỗ ở, vì là chỗ ở của tất cả Bồ Tát. Bồ đề tâm là hạnh vô tận, vì chẳng chứng lấy quả giải thoát của Thanh Văn. Bồ đề tâm như tịnh lưu-ly, vì tự tánh sáng sạch không nhơ, Bồ đề tâm như châu đế thanh, vì hơn hẳn trí của thế gian và nhị thừa. Bồ đề tâm như tiếng trống tan canh, vì đánh thức chúng sanh say ngủ bởi phiền não. Bồ đề tâm như nước trong sạch, vì tánh vốn thuần sạch không nhơ đục. Bồ đề tâm như vàng diêm phù-đàn, vì che chói tất cả pháp lành hữu vi. Bồ đề tâm như đại sơn vương, vì siêu xuất tất cả thế gian. Bồ đề tâm là chỗ về, vì chẳng chối từ tất cả ai trở về. Bồ đề tâm là nghĩa lợi, vì có thể trừ tất cả sự suy não. Bồ-đề tâm là diệu bửu, vì có thể làm cho tất cả tâm sanh hoan hỉ. Bồ đề tâm như hội đại thí, vì sung mãn tất cả tâm chúng sanh. Bồ đề tâm là tôn thắng, vì tâm chúng sanh không tâm nào bằng. Bồ đề tâm như phục tạng, vì có thể nhiếp tất cả phật pháp. Bồ đề tâm như lưới nhơn đà la, vì có thể phục a tu la phiền não. Bồ đề tâm như gió bà lâu na, vì có thể chấn động những kẻ đáng được hóa độ. Bồ đề tâm như lửa nhân đà la, vì có thể đốt cháy tất cả hoặc tập. Bồ đề tâm như phật chi đề, vì tất cả thế gian nên cúng dường.
Nầy Thiện nam tử ! Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Tóm lại, phải biết Bồ đề tâm đồng với công đức của tất cả phật pháp.
Tại sao vậy ?
Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh. Tam thế Như Lai từ Bồ đề tâm mà xuất sanh.
Vì thế nên nếu có ai phát tâm vô thượng Bồ đề thời đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp thủ khắp nhất thiết trí đạo.
Nầy Thiện nam tử ! ví như có người được thuốc vô úy thời rời năm điều khủng bố.
Những là lửa không cháy được. Độc không hại được. Gươm dao không đứt được. Nước không làm trôi chìm được. Khói không xông ngộp được.
Cũng vậy, đại Bồ Tát được thuốc nhất thiết trí Bồ đề tâm, thời lửa tham không cháy, độc sân chẳng hại, dao hoặc chẳng đứt, dòng hữu lậu chẳng cuốn trôi, khói giác quán không thể xông hại.
Ví như có người được thuốc giải thoát, thời vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ Tát được thuốc giải thoát trí Bồ đề tâm, thời lìa hẳn sanh tử hoạn nạn.
Ví như có người cầm thuốc ma ha ưng già, rắn độc nghe mùi thời liền tránh xa. Cũng vậy, đại Bồ Tát gìn lấy thuốc đại ưng già Bồ đề tâm, thời tất cả rắn độc ác phiền não nghe hơi thảy đều tan mất.
Ví như có người cầm thuốc vô thắng, tất cả oán địch không hơn được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc vô-thắng đại Bồ đề tâm, thời hàng phục được tất cả ma quân.
Ví như có người cầm thuốc tỳ cấp ma, có thể làm cho độc tiễn tự nhiên rơi rớt. Cũng vậy, đại Bồ Tát cầm thuốc tỳ cấp ma bồ đề tâm, làm cho tên độc tham sân si ác kiến tự nhiên rơi rớt.
Ví như có người cầm thuốc thiện kiến, có thể trừ tất cả bệnh tật đã mang. Cũng vậy, đại Bồ Tát cầm thuốc thiện kiến Bồ đề tâm, trừ hết tất cả bệnh phiền não.
Như có dược thọ tên san đà na,có ai lấy vỏ dùng thoa ghẻ, thời ghẻ liền lành, vỏ cây ấy vừa lấy là sanh lại liền, lấy không hết được. Cũng vậy, đại Bồ Tát từ Bồ đề tâm sanh cây nhất thiết trí, có ai thấy mà sanh lòng tin, thời ghẻ phiền não nghiệp đều được tiêu diệt, cây nhất thiết trí không hề tổn.
Như có cây thuốc tên là vô sanh căn, do sức của cây nầy mà tăng trưởng tất cả cây ở Diêm Phù Đề. Cũng vậy, do sức cây Bồ đề tâm của đại Bồ Tát làm cho tất cả thiện pháp của hàng hữu học vô học và chư Bồ Tát đều được tăng trưởng.
Ví như thuốc A lam bà, nếu dùng thoa thân, thời thân và tâm đều có kham năng. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát làm cho thân tâm tăng trưởng pháp lành.
Ví như có người được thuốc niệm lực, phàm những sự đã được nghe thời ghi nhớ chẳng quên. Đại Bồ Tát được tâm Bồ đề thời nghe trì tất cả phật pháp đều không quên mất.
Ví như thuốc đại liên hoa, nếu ai uống thuốc nầy thời sẽ sống lâu một kiếp. Cũng vậy, đại Bồ Tát uống Bồ đề tâm thời được thọ mạng tự tại trong vô số kiếp.
Ví như thuốc ẩn hình, người cầm thuốc nầy thời nhơn và phi nhơn đều không thấy được. Đại Bồ Tát cầm Bồ đề tâm thời tất cả ma chúng không thấy được.
Nầy Thiện nam tử ! Như biển có châu vương tên là Phổ Tập Chúng Bửu. Châu nầy nếu còn, giả sử kiếp hỏa đốt cháy thế gian cũng không thể làm cho biển nầy giảm được một giọt nước. Cũng vậy, tâm Bồ đề ở trong biển đại nguyện của Bồ Tát, nếu thường ghi nhớ gìn giữ chẳng thối thất, thời không thể hư hoại một thiện căn của Bồ Tát. Nếu thối tâm Bồ đề thời tất cả pháp lành đều diệt tan.
Như có châu ma ni tên là Đại Quang Minh, nếu ai đeo châu nầy thời bao nhiêu quang minh của tất cả đồ trang sức khác đều bị che chói khuất cả. Cũng vậy Bồ đề tâm trang nghiêm nơi thân của Bồ Tát thời tất cả tâm nhị thừa đều khuất mất.
Như thủy thanh châu có thể lóng trong nước đục. Cũng vậy Bồ-đề tâm của Bồ Tát lóng sạch tất cả phiền-não.
Như có người đeo châu Trụ Thủy xuống biển không bị nước làm hại. Cũng vậy, đại Bồ Tát được Bồ đề tâm vào trong tất cả biển sanh tử trọn không bị chìm.
Nếu có người được bửu châu của rồng rồi cầm đi vào Long-Cung, không bị các loài rồng rắn làm hại. Cũng vậy, đại Bồ Tát được tâm Bồ đề vào trong dục giới, tất cả phiền não không làm hại được.
Như Thiên Đế Thích đội mão ma ni che khuất tất cả thiên chúng khác. Cũng vậy, đại Bồ Tát đội mão đại nguyện Bồ đề tâm thời vượt hơn tất cả chúng sanh trong tam giới.
Như có người được châu như ý thời hết nghèo khổ. Cũng vậy, đại Bồ Tát được Bồ đề tâm thời xa lìa tất cả tà mạng bố úy.
Như có người được châu Nhựt Tinh cầm hướng về phía ánh nắng mặt trời thời sanh ra lửa. Cũng vậy, đại Bồ Tát được tâm Bồ đề cầm hướng đến trí quang mà sanh trí hỏa.
Như có người được châu Nguyệt Tinh cầm hướng về phía ánh sáng mặt trăng thời sanh ra nước. Cũng vậy, đại Bồ Tát được tâm Bồ đề xoay về hồi hướng thời sanh tất cả thiện căn đại nguyện.
Như Long Vương đội mão ma ni bửu thời rời khỏi tất cả oán địch bố úy. Cũng vậy, đại Bồ Tát đội mão bồ đề tâm đại bi thời rời khỏi ác đạo và các nạn.
Như có bửu châu tên là nhất thiết thế gian trang nghiêm tạng, nếu ai được châu nầy thời muốn chi cũng đều được thỏa mãn, mà châu nầy không bị tổn giảm. Cũng vậy, nếu ai được tâm bồ đề nầy thời đều được toại nguyện, mà tâm nầy không bị tổn giảm.
Như Chuyển Luân Vương có ma ni bửu để trong cung, phóng ánh sáng lớn phá tất cả tối. Cũng vậy, đại Bồ Tát đem Bồ đề tâm để ở dục giới phóng đại trí quang phá vô minh của mọi loài.
Như châu đế thanh đại ma ni, ai được quang minh của châu nầy chiếu nhầm thời thân người ấy đồng màu với châu nầy. Cũng vậy, đại Bồ Tát dùng Bồ đề tâm quán sát các pháp hồi hướng thiện căn thời đều đồng một màu Bồ đề tâm.
Như châu lưu ly trăm ngàn năm ở trong chỗ nhơ uế mà chẳng nhiễm nhơ uế, vì tánh nó bổn lai trong sạch. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát ở dục giới trăm ngàn kiếp mà chẳng bị sự lỗi ác của cõi dục làm nhiễm, vì tánh nó thanh tịnh như pháp giới.
Như châu tịnh quang minh có thể chói khuất màu sắc của tất cả châu báu khác. Cũng vậy, bồ đề tâm của đại Bồ Tát, có thể chói khuất tất cả công đức của phàm phu và nhị thừa.
Như châu hỏa diệm đều có thể trừ diệt tất cả tối tăm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát, có thể diệt trừ tất cả sự tối tăm của vô tri.
Như trong biển có vô giá bửu, người đi buôn châu báu lượm được đem về thành thị, tất cả quang sắc của những châu ngọc khác không bằng được. Cũng vậy, Bồ đề tâm ở trong biển lớn sanh tử, đại Bồ Tát dùng thuyền đại nguyện chở đem vô thành giải thoát, công đức của hàng nhị thừa không bằng được.
Như có bửu châu tên là tự-tại vương ở tại châu Diêm Phù Đề cách mặt nhật mặt nguyệt bốn vạn do tuần, bao nhiêu cảnh vật trang nghiêm của nhật nguyệt đều hiện bóng rõ ràng trong bửu châu nầy. Cũng vậy, công đức thanh tịnh của đại Bồ Tát phát Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới không, tất cả công đức của phật trí đều hiện trong đó.
Như bửu châu tự tại vương, tất cả tài vật châu báu y phục mà ánh sáng nhật nguyệt chiếu đến giá trị không bằng được bửu-châu nầy. Cũng vậy, tâm Bồ đề của đại Bồ Tát, tất cả công đức của thiên nhơn nhị thừa mà nhất thiết trí quang chiếu đến đều không bằng được.
Như trong biển có bửu châu hải tạng. Châu nầy hiện khắp những sự trang nghiêm trong biển. Cũng vậy, Bồ đề tâm của Bồ Tát hiện khắp những sự trang nghiêm của nhất thiết trí.
Như vàng Diêm Phù Đàn trên trời chỉ trừ tâm vương đại ma ni, không bảo vật nào sánh bằng. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát, trừ nhất thiết trí, không công đức nào sánh bằng.
Như người giỏi phương pháp thâu rồng, thời ở trong loài rồng được tự tại. Cũng vậy, Bồ đề tâm của Bồ Tát được tự tại trong tất cả phiền não.
Như dũng sĩ mặc giáp cầm binh khí, tất cả oán địch không chế phục được. Cũng vậy, đại Bồ Tát mặc và cầm tâm bồ đề thời tất cả nghiệp hoặc không chế ngự được.
Như hắc chiên đàn hương trên trời, nếu đốt một chỉ thời hơi hương xông khắp Tiểu Thiên thế giới, giá trị của tất cả trân bửu trong Đại Thiên thế giới đều không bằng. Cũng vậy, một niệm công đức của Bồ đề tâm của đại Bồ Tát xông khắp pháp giới, tất cả công đức của Thanh Văn Duyên Giác đều không bằng được.
Như bạch chiên đàn thoa trên thân thời có thể trừ tất cả nhiệt não làm cho thân tâm được thanh lương. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát có thể trừ tất cả hư vọng phân biệt phiền não làm cho được trí huệ.
Như núi Tu Di, nếu ai ở gần thời đồng một màu sắc với núi nầy. Cũng vậy, nếu ai ở gần Bồ đề tâm của đại Bồ-Tát thời đồng màu với nhất thiết trí của Bồ Tát.
Như cây ba lợi chất đa la, hương khí của vỏ cây nầy không có cây hoa nào ở Diêm Phù Đề thơm bằng. Cũng vậy, hương công đức đại nguyện của bồ đề tâm của đại Bồ Tát hơn hẳn công đức của hương giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến của tất cả hàng nhị thừa.
Như cây ba lợi chất đa la dầu chưa đơm hoa, nhưng nên biết chính nơi cây nầy là chỗ sản xuất vô lượng hoa. Cũng vậy, tâm Bồ đề của đại Bồ Tát dầu chưa phát sanh nhất thiết trí, nhưng nên biết tâm nầy là chỗ xuất sanh hoa trí giác cho vô số chúng nhơn thiên.
Như dùng hoa ba lợi chất đa la để ướp y phục trong một ngày, thời mùi thơm hơn hẳn dùng các thứ hoa thơm khác ướp y phục trong ngàn năm. Cũng vậy, tâm bồ đề của đại Bồ Tát huân tập công đức trong một đời hơn hẳn công-đức vô lậu của hàng nhị thừa huân tập trong trăm ngàn kiếp.
Như trong hải đảo mọc cây gia tử, cây rễ nhánh lá bông trái của cây nầy, mọi người thường lấy ăn dùng, mà vẫn không hết. Cũng vậy, tâm Bồ đề của đại Bồ Tát từ sơ phát tâm đến thành phật, chánh pháp trụ thế luôn lợi ích tất cả thế gian không lúc nào tạm dứt.
Như có nước thuốc tên là ha trạch ca, nếu dùng một lượng nước thuốc nầy thời biến được ngàn lượng đồng đều thành chân kim, chẳng phải đồng biến được thuốc nầy. Cũng vậy, đại Bồ Tát dùng thuốc trí hồi hướng của Bồ đề tâm, biến tất cả pháp nghiệp hoặc làm cho đều thành tướng nhất thiết trí, chẳng phải nghiệp hoặc biến được tâm nầy.
Như chút it lửa tùy đem nhúm đốt chỗ nào thời lửa càng thêm mạnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát tùy chỗ nào phan duyên thời trí-huệ càng mạnh.
Như một ngọn đèn đem thắp trăm ngàn đèn khác, mà ngọn đèn nầy không tổn giảm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát sanh thành tam thế phật trí, mà tâm nầy không giảm không hết.
Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự tối tăm đã trăm ngàn năm. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát đem vào trong tâm của chúng sanh, thời có thể trừ hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức bất khả thuyết kiếp.
Như tim đèn, tùy lớn hay nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thời ánh sáng chẳng tắt. Cũng vậy, đền Bồ đề tâm của đại Bồ Tát, dùng đại nguyện làm tim quang-minh chiếu pháp giới, thêm dầu đại-bi thời giáo hóa chúng sanh, tịnh phật độ, thi hành phận sự không thôi dứt.
Như Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đội thiên quan Diêm phù đàn kim, tất cả vật trang nghiêm của chư Thiên Tử cõi dục đều không bằng được. Cũng vậy, đại Bồ Tát đội Bồ đề tâm đại nguyện, thời tất cả công đức của phàm phu nhị thừa đều không bằng được.
Như lúc sư tử vương gầm rống, sư tử con nghe tiếng đều thêm mạnh mẽ, còn các muôn thú khác đều kinh sợ lẫn trốn. Cũng vậy Bồ đề tâm của Pháp Vương gầm rống, chư Bồ Tát Pháp Vương Tử nghe tiếng Phật thời thêm công đức, còn người có sở đắc nghe tiếng Phật thời đều thối tán.
Như có người lấy gân sư tử làm dây đờn, tấu đờn nầy thời tiếng của những đờn khác đều tắt mất. Cũng vậy, đại Bồ Tát dùng tâm Bồ đề làm dây, pháp nhạc, khi tấu lên thời tất cả ngũ dục và công đức của nhị thừa đều đoạn tuyệt.
Như có người chứa sữa dê sữa bò nhiều như biển lớn, đem một giọt sữa sư tử nhỏ vào trong đó, thời đều biến hoại, sữa sư tử xuyên thẳng qua không bị trở ngại. Cũng vậy, đại Bồ Tát đem tâm Bồ đề để vào trong biển phiền não nghiệp đã chứa từ vô lượng kiếp, thời đều hư hoại, mà Bồ đề tâm thẳng qua vô ngại, trọn không trụ trong quả giải thoát của nhị thừa.
Như chim Ca Lăng Tần Già lúc còn ở trong vỏ trứng đã có thế lực, các loài chim khác đều không bằng được. Cũng vậy, bồ đề tâm của đại Bồ Tát có những thế lực công đức đại bi, hàng Thanh Văn và Duyên Giác không bằng được.
Như chim kim sí lúc mới sanh cặp mắt sáng lanh, bay liệng mau chóng, tất cả chim khác dầu đã sanh lâu đã trưởng thành vẫn không bằng được. Cũng vậy, đại Bồ Tát phát Bồ đề tâm làm pháp vương tử thời trí huệ thanh tịnh, đại bi dũng mãnh, tất cả hàng nhị thừa dầu đã tu hành trăm ngàn kiếp vẫn không bằng được.
Như có tráng sỉ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng dầy xuyên qua vô ngại. Cũng vậy, đại Bồ Tát dùng bồ-đề tâm đâm thủng hư những tà kiến phiền não, xuyên qua vô ngại.
Như đại lực sỉ Ma Ha Na Già, nếu phấn khởi oai lực, thời trên trán nổi bóng ghẻ, nếu bóng ghẻ ấy chưa lặn, thời tất cả người trong Diêm Phù Đề không ai đấu sức lại. Cũng vậy, đại Bồ Tát nếu khởi đại bi thời tất-định phát Bồ đề tâm, lúc chưa xả tâm nầy thời tất cả thế gian những ma và ma dân không làm hại được.
Như xạ sư có các đệ tử, dầu chưa tập quen nghề của thầy, nhưng sự khôn ngoan khéo léo đã hơn những người khác. Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm cũng như vậy, dầu chưa tập quen hạnh nhất thiết trí, nhưng bao nhiêu trí nguyện dục giải đã hơn hẳn tất cả thế gian và nhị thừa.
Như người tập bắn tên, trước đặt chân sau mới tập cách bắn. Cũng vậy, đại Bồ Tát muốn học đạo nhất thiết trí của Như Lai, trước phải an trụ tâm Bồ đề, rồi sau mới tu hành tất cả phật pháp.
Như nhà ảo thuật sắp bày trò, trước phải nhớ và trì ảo pháp, sau đó biến hiện mới thành tựu. Cũng vậy, đại Bồ Tát sắp phát khởi thần thông của chư Phật Bồ Tát, trước phải phát tâm Bồ đề, sau đó mọi sự mới được thành-tựu.
Như ảo thuật không có hình sắc mà hiện ra hình sắc. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát dầu không hình sắc thấy được, nhưng có thể khắp thập phương thế giới thị hiện những công đức trang nghiêm.
Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, thời chuột liền rút vô hang chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ Tát phát bồ-đề tâm tạm dùng huệ nhãn xem nghiệp hoặc, thời nghiệp hoặc liền lẫn trốn chẳng còn sanh.
Như có người đeo đồ trang sức bằng vàng diêm phù đàn, vàng nầy chói che những vật khác làm cho những vật khác như đống mực đen. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đeo Bồ đề tâm, tâm nầy che chói tất cả công đức của phàm phu và nhị thừa, làm cho những công đức nầy không còn quang sắc.
Như chút ít từ thạch, sức của nó có thể hút những xiền xích sắt. Cũng vậy, đại Bồ Tát khởi một niệm Bồ đề tâm, thời có thể hoại diệt tất cả kiến dục vô minh.
Như có từ thạch, sắt nếu đối diện thời đều bị hút đi không còn an trụ được. Bồ đề tâm của đại Bồ Tát cũng như vậy, những nghiệp phiền não và nhị thừa giải-thoát nếu tạm đối diện thời đều tan mất không còn lưu trú.
Như có người giỏi vào biển lớn, tất cả loài thủy tộc không làm hại được, giả sử vào miệng cá Ma Kiệt cũng không bị cắn nuốt. Cũng vậy, đại Bồ Tát phát tâm Bồ đề vào biển sanh tử, những nghiệp phiền não không làm hại được, giả sử vào trong pháp thiện tế của Thanh Văn Duyên Giác cũng chẳng bị họ làm lưu nạn.
Như có người uống nước cam lộ, tất cả vật độc không làm hại được. Cũng vậy, đại Bồ Tát uống Bồ đề tâm thời chẳng sa vào hàng Thanh Văn Bích Chi Phật, vì đủ sức bi nguyện quảng-đại.
Như có người được thuốc an thiện na dùng thoa lên đôi mắt, dầu đi trong nhân gian mà không ai ngó thấy. Cũng vậy, đại Bồ Tát được bồ đề tâm, có thể dùng thiện phương tiện nhập cảnh giới ma nhưng tất cả chúng ma không thấy được.
Như có người nương dựa Quốc Vương thời chẳng sợ những người khác. Cũng vậy, đại Bồ Tát nương dựa thế lực lớn của Bồ đề tâm thời chẳng sợ những nạn chướng cái ác đạo.
Như có người ở trong nước thời chẳng sợ lửa cháy. Cũng vậy, đại Bồ Tát ở trong thiện căn Bồ đề tâm thời chẳng sợ trí giải thoát của nhị thừa.
Như người nương dựa mãnh tướng thời không sợ tất cả kẻ oán địch. Cũng vậy, đại Bồ Tát nương dựa sức dũng mãnh của Bồ đề tâm thời chẳng sợ tất cả ác hạnh.
Như Thiên Đế Thích cầm chày kim cang đánh dẹp tất cả chúng A Tu La. Cũng vậy, đại Bồ Tát cầm giữ tâm bồ đề xô dẹp tất cả những ma ngoại đạo.
Như có người uống thuốc diên mạng thời mãi mãi được tráng kiện chẳng già chẳng ốm. Cũng vậy, đại Bồ Tát uống Bồ đề tâm thời trong vô số kiếp thật hành Bồ tát hạnh không nhàm mỏi, cũng không nhiễm trước.
Như có người điều hòa thuốc nước, thời trước hết phải lấy nước tốt trong sạch. Cũng vậy, đại Bồ Tát muốn tu tất cả hạnh nguyện đại thừa thời trước hết phải phát bồ đề tâm.
Như người giữ gìn thân thể, thời trước hết phải gìn giữ mạng-căn. Cũng vậy, đại Bồ Tát hộ trì phật pháp thời phải hộ trì Bồ đề tâm trước.
Như người nếu mạng căn dứt thời không thể làm lợi ích cho cha mẹ tôn thân. Cũng vậy, đại Bồ Tát nếu xả bỏ Bồ đề tâm thời không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, không thể thành tựu phật công đức.
Như đại hải không ai làm hư hoại được. Cũng vậy những nghiệp hoặc, và tâm nhị thừa chẳng thể làm hư hoại được.
Như ánh sáng mặt nhật, ánh sáng của tinh tú không chói che được. Cũng vậy, tất cả trí vô lậu của nhị thừa không thể chói che Bồ đề tâm được.
Như Vương Tử sơ sanh, thời được tất cả quan đều tôn trọng, vì là dòng Vua tự tại. Cũng vậy, đại Bồ Tát ở trong phật pháp phát bồ đề tâm thời được các bực kỳ túc tu phạm hạnh, nhị thừa đều tôn trọng, vì đại bi tự tại.
Như Vương Tử dầu tuổi còn nhỏ bé, nhưng các quan đều kính lễ. Cũng vậy, đại Bồ Tát dầu mới phát tâm tu Bồ-tát hạnh, nhưng được các bực kỳ cựu Thanh Văn kính lễ.
Như Vương Tử dầu chưa được tự tại nơi tất cả các quan, nhưng đã đủ vương tướng nên chẳng đồng với tất cả các quan, vì dòng dõi tôn thắng. Cũng vậy, đại Bồ Tát dầu chưa được tự tại trong tất cả nghiệp hoặc, nhưng đã đủ tướng bồ đề nên chẳng đồng với tất cả hàng nhị thừa, vì là chủng tánh Phật đệ nhất.
Như ma ni bửu thanh tịnh, vì mắt lòa nên thấy là bất tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát vốn thanh tịnh. Kẻ vô trí chẳng tin cho là bất tịnh.
Như có thuốc được chú lực gia trì, nếu ai được thấy nghe cùng ở chung, thời tiêu diệt được tất cả bệnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát được tất cả thiện căn trí huệ phương tiện nguyện trí đồng nhiếp trì, nếu có chúng sanh thấy nghe ở chung ghi nhớ, thời tất cả bệnh phiền não đều được trừ diệt.
Như có người uống cam lộ, thân người nầy chẳng biến chẳng hoại. Cũng vậy, nếu đại Bồ-Tát ghi nhớ giữ gìn bồ-đề-tâm thời thân nguyện trí rốt ráo chẳng hoại.
Như người máy bằng gỗ, nếu không có chốt thời ly tán chẳng vận động được. Cũng vậy, đại Bồ Tát nếu không Bồ đề tâm thời công hạnh phân tán chẳng thể thành tựu tất cả phật pháp.
Như Chuyển Luân Vương có trầm hương bửu tên là Tượng Tạng, nếu đốt hương nầy thời bốn binh chủng của Luân Vương đều bay lên không trung. Cũng vậy, đại Bồ Tát có Bồ đề tâm, nếu phát tâm nầy thời tất cả thiện căn của Bồ Tát thoát hẳn tam giới đi trong trí vô vi của Như Lai.
Như chất kim cang chỉ sản xuất từ mỏ kim-cang hoặc mỏ vàng, chẳng phải sản xuất từ mỏ báu khác. . Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát chỉ phát sanh từ lòng đại bi cứu hộ chúng sanh, và từ cảnh giới thù-thắng nhất thiết chủng trí, chẳng phải xuất sanh từ những thiện căn khác.
Như cây vô căn, chẳng có rễ mà nhánh lá bông trái đều sum sê. . Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ Tát vốn không căn vô sở đắc mà có thể trưởng dưỡng nhất thiết chủng trí thần thông đại nguyện che mát khắp thế gian.
Như chất kim cang chẳng phải chậu xấu chậu bể đựng được, chỉ trừ chậu lành thật tốt. Cũng vậy, những chúng sanh hạ liệt tham sân phá giới giải đãi vọng niệm vô trí không thể chứa đựng Bồ đề tâm, chỉ trừ Bồ Tát thâm tâm.
Như kim cang có thể xoi lũng các chất báu khác. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể xuyên thấu tất cả pháp bảo.
Như kim cang có thể làm hoại các hòn núi. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể phá vỡ những núi tà kiến.
Như kim cang dầu đã bể, nhưng các thứ báu khác vẫn không bằng. Cũng vậy, Bồ đề tâm dầu bị chí liệt mà có chút suy tổn, nhưng vẫn còn hơn tất cả công đức của hàng nhị thừa.
Như kim cang dầu tổn khuyết nhưng vẫn trừ được sự nghèo cùng. Cũng vậy, Bồ đề tâm dầu bị tổn khuyết chẳng tăng tấn được các công hạnh, nhưng còn bỏ rời được tất cả sanh tử.
Như chút ít kim cang có thể phá hoại tất cả vật. Cũng vậy, tâm bồ đề nhập chút ít cảnh giới liền phá tất cả vô tri phiền não.
Như kim cang chẳng phải người phàm có được. Cũng vậy, chẳng phải những chúng sanh ý liệt mà có được Bồ đề tâm.
Như kim cang, nếu là người chẳng biết rành chất báu thời không biết được công năng tác dụng của nó. Cũng vậy, người chẳng biết chánh pháp thời không biết được công năng tác dụng của Bồ đề tâm.
Như kim cang không gì làm tiêu diệt được. Cũng vậy, tất cả pháp không thể tiêu diệt được Bồ đề tâm.
Như chày kim cang, những người có sức khoẻ đều không cầm được, chỉ trừ người có sức đại na la diên. Cũng vậy, Bồ đề tâm, tất cả hàng nhị thừa đều không cầm giữ được, chỉ trừ Bồ-Tát có thiện lực kiên cố nhơn duyên quảng đại.
Như kim cang, tất cả vật khác không làm hoại được, mà kim cang lại có thể làm hoại các vật, thể tánh nó vẫn không tổn giảm. Cũng vậy, Bồ đề tâm khắp tất cả kiếp giáo hóa chúng sanh tu hành khổ hạnh. Những sự mà hàng Thanh Văn Duyên Giác không làm được, Bồ Tát đều làm được , vẫn không nhàm mỏi, không tổn giảm Bồ đề tâm.
Như kim cang, chỉ trừ đất kim cang, những chỗ khác không thể giữ chịu được. Cũng vậy, Thanh Văn Duyên Giác đều không thể giữ chịu được Bồ đề tâm, chỉ trừ người xu hướng phật trí.
Như chậu kim cang không nứt mẻ dùng đựng nước, thời vĩnh viễn nước không chảy rịn vào đất. Cũng vậy, dùng Bồ đề tâm chứa đựng thiện căn, thời vĩnh viễn không lọt vào các loài.
Như kim cang tế có thể giữ vững đại địa. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể giữ vững hạnh nguyện Bồ Tát chẳng sa vào tam giới.
Như kim cang ở lâu trong nước chẳng rã chẳng ướt. Cũng vậy, Bồ đề tâm ở trong nghiệp hoặc sanh tử nhiều kiếp, vẫn không hư không đổi.
Như kim cang, tất cả thứ lửa không đốt cháy được, chẳng làm nóng được. Bồ đề tâm cũng vậy, tất cả lửa phiền não sanh tử không đốt được, không làm nóng được.
Như trên tòa kim-cang trong Đại Thiên thế giới có thể giữ vững chư Phật ngồi đạo tràng hàng ma thành đạo vô thượng chánh giác, tất cả những tòa khác không kham được. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể giữ vững tất cả hạnh nguyện các môn Ba la mật, các nhẫn, các địa, hồi hướng thọ ký, tu tập pháp Bồ đề trợ đạo, cúng dường chư Phật nghe pháp thọ hành của Bồ Tát, tất cả tâm khác không có công năng nầy.
Nầy Thiện nam tử ! Bồ đề tâm thành tựu vô lượng vô biên nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thù thắng.
Nếu có chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề thời được công đức thù thắng như vậy.
Vì thế nên ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi phát tâm vô thượng bồ-đề cầu bồ-tát hạnh, đã được công-đức lớn như vậy.
Nầy Thiện nam tử ! Như ngươi hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ tát hạnh, thế nào tu Bồ tát đạo ?