PHÁP HỘI BỬU LƯƠNG TỤ
THỨ BỐN MƯƠI BỐN
Hán dịch: Bắc Lương, Sa Môn Thích Đạo Củng
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
PHẨM A LAN NHĂ TỲ KHEO
THỨ NĂM
Trưởng lăo Ma Ha Ca Diếp lại bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Ngang chỗ nào gọi là Tỳ Kheo a lan nhă? Ngang chỗ nào gọi là Tỳ Kheo khất thực? Ngang chỗ nào gọi là Tỳ Kheo chứa y phấn tảo? Ngang chỗ nào gọi là Tỳ Kheo ngồi dưới cội cây? Ngang chỗ nào gọi là Tỳ Kheo ở g̣ mả? Ngang chỗ nào gọi là Tỳ Kheo ở đất trống?".
Đức Phật dạy: " Nầy Đại Ca Diếp! Gọi là Tỳ Kheo a lan nhă tức phải là người ưa chỗ a lan nhă và ở chỗ a lan nhă. Chỗ a lan nhă là chỗ không có tiếng lớn, không có tiếng chúng ồn náo, ĺa cheo, nai, cọp, sói và các chim chóc, xa trộm cướp và kẻ chăn súc vật, chỗ thuận với hạnh Sa Môn. Chỗ a lan nhă như vậy nên ở trong đó tu hành.
Tỳ Kheo kia lúc muốn đến chỗ a lan nhă phải tư duy tám pháp: Một là tôi nên xả thân, hai là tôi nên xả mạng, ba là tôi nên xả lợi dưỡng, bốn là rời ĺa tất cả chỗ yêu thích, năm là tôi ở trong núi chết sẽ như con nai chết, sáu là tôi ở chỗ a lan nhă sẽ thọ hạnh a lan nhă, bảy là tôi sẽ dùng pháp để tự sống, tám là tôi chẳng dùng phiền năo để tự sống.
Đây là tám pháp a lan nhă mà Tỳ Kheo phải tư duy, tư duy rồi sẽ đi đến chỗ a lan nhă.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo đến chỗ a lan nhă rồi hành pháp a lan nhă, dùng tám pháp hành từ sanh ḷng thương với tất cả chúng sanh: Một là dùng từ tâm làm lợi ích, hai là dùng từ tâm an vui, ba là dùng từ tâm không sân hận, bốn là từ tâm chơn chánh, năm là từ tâm không dị biệt, sáu là từ tâm thuận tùy, bảy là từ tâm quán tất cả các pháp và tám là từ tâm tịnh như hư không. Tỳ Kheo dùng tám pháp hành nầy sanh từ tâm đối với chúng sanh.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo đến chỗ a lan nhă rồi phải tư duy như vầy: Tôi dầu đến nơi xa ở một ḿnh không bè bạn, nếu tôi làm lành hay làm chẳng lành không người dạy răn. Rồi lại nghĩ rằng: Nơi đây có Thiên, Long, Quỉ, Thần, chư Bồ Tát, chư Phật Thế Tôn biết tôi chuyên tâm. Các Ngài sẽ chứng cho tôi, nay tôi ở tại đây tu pháp a lan nhă tâm bất thiện của tôi chẳng được tự tại phát sanh.
Rồi lại tự suy rằng: Tôi đến chỗ rất xa không bạn bè nầy, không người thân cận không có sở hữu, tôi nên cảnh giác ḷng tham ḷng sân ḷng si, các pháp bất thiện khác cũng phải cảnh giác. Nay tôi chẳng nên chẳng khác với người thích ở chúng đông, chẳng nên chẳng khác với người ưa gần tụ lạc. Nếu chẳng khác mà xưng a lan nhă th́ là khi dối chư Thiên, Long, Quỉ, Thần. Chư Phật thấy tôi, chính tôi cũng chẳng vui vẻ. Nếu tôi hành đúng pháp a lan nhă tất chư Thiên, Long, Quỉ, Thần chẳng quở trách tôi. Chư Phật thấy tôi liền vui mừng.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo ở chỗ a lan nhă hành pháp a lan nhă nhứt tâm giữ chắc giới giải thoát, khéo hộ giới chúng, tịnh khẩu thân ư, không làm siểm khúc, tịnh nơi chánh mạng, tâm hướng đến các chánh định, pháp được nghe nên ghi nhớ, siêng chánh tư duy hướng đến ly dục tịnh diệt Niết Bàn, sợ các sanh tử quán ngũ ấm như oan gia, quán tứ đại như độc xà, quán lục nhập như nhà hoang, khéo phương tiện quán mười hai nhơn duyên, ĺa rời kiến đoạn chấp thường, quán không có ngă, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, hiểu pháp không đạt vô tướng lần bớt sở tác mà hành vô tác, ḷng thường kinh sợ đi trong tam giới thường xuyên tu hành như cứu đầu cháy, thường tinh tiến trọn không thối chuyển, quán thân thiệt tướng, nên suy nghĩ rằng: Quán pháp như vậy phải biết gốc khổ dứt tất cả tập nhơn chứng nơi diệt tận siêng tu chánh đạo hành từ tâm an trụ Tứ niệm xứ, ĺa pháp bất thiện vào môn thiện pháp, an trụ Tứ chánh cần nhập Tứ như ư túc, hộ tứ thiện căn tự tại nơi Ngũ lực, tỏ Bảy Bồ Đề phần siêng hành Bát Thánh đạo phần, thọ tŕ thiền định dùng huệ phân biệt các pháp tướng.
Nầy Đại Ca Diếp! Nói pháp như vậy để nghiêm sức a lan nhă. Tỳ Kheo nghiêm sức như vậy rồi an trụ núi rừng, đầu hôm cuối đêm siêng tu các công hạnh chớ nên ngủ nghỉ, thường nhớ muốn được pháp xuất thế!
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo khi ở chỗ nào đều thường hành đạo mà chẳng trang sức thân thể và các y phục, lượm cỏ khô trải làm chỗ ngồi, tự dùng tọa cụ của ḿnh mà ĺa vật của thường trụ Tăng và tứ phương Tăng. Ở nơi a lan nhă, với y phục, Tỳ Kheo tri túc vừa đủ che thân để hành Thánh đạo.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo khi khất thực vào thành ấp tụ lạc phải suy nghĩ như vầy: Tôi từ chỗ a lan nhă đến thành ấp tụ lạc, hoặc được vật thực hay chẳng được ḷng tôi vẫn không ưu hỉ. Nếu khất chẳng được nên sanh ḷng vui nhớ nghiệp báo đời trước, nay tôi nên siêng tu tập phước nghiệp. Lại nhớ Đức Như Lai khất thực cũng chẳng luôn luôn được.
A lan nhă Tỳ Kheo vào thành khất thực phải dùng pháp trang nghiêm. Dùng pháp trang nghiêm xong rồi sau mới vào thành khất thực. Thế nào là pháp trang nghiêm? Nếu thấy sắc vừa ư chẳng nên tham trước, nếu thấy sắc chẳng vừa ư chẳng nên sanh giận ghét. Với thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng chẳng sanh tham sân như vậy, luôn nhiếp hộ các căn nh́n kỹ một tầm, điều phục tâm ḿnh chẳng cho pháp mà ḿnh suy niệm rời khỏi tâm, chẳng để vật thực nhiễm ô tâm mà hành khất thực, nên thứ đệ khất thực. Nơi khất thực được chẳng sanh ḷng mừng, nơi khất thực chẳng được cũng chẳng sanh ḷng sân. Nếu đến mười nhà hoặc quá mười nhà mà chẳng được vật thực chẳng nên sanh ḷng ưu phiền mà nên nghĩ rằng các Trưởng giả, các Bà La Môn cư sĩ có nhiều duyên sự nên chẳng rảnh đem vật thực cho tôi, vả lại các người tại gia ấy chưa từng nhớ đến tôi huống là cho vật thực. Nếu có thể suy nghĩ như vậy th́ Tỳ Kheo a lan nhă đi khất thực không hề kinh sợ.
Nầy đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo đi khất thực trong thành ấp tụ lạc nếu thấy nam nữ, đồng nam đồng nữ, nhẫn đến súc sanh nên phát tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh phát nguyện tu hành tinh tiến cầu mong chúng sanh ai thấy tôi cho tôi vật thực đều được sanh lên cơi trời.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo đi khất thực được ngon được dở xem bốn phương mà nghĩ rằng nơi đây ai là kẻ nghèo cùng, tôi sẽ bớt phần ăn cấp cho họ. Nếu thấy kẻ nghèo cùng liền chia nửa phần ăn cấp cho, nếu không thấy th́ nên nghĩ rằng: Chúng sanh mà mắt tôi không thấy, trong thức ăn nầy chỗ ngon tôi xin thí cho họ, tôi làm thí chủ, họ làm người thọ.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo khất thực được rồi mang về chỗ a lan nhă, rửa sạch tay chưn, tịnh nghi thức Sa Môn, đủ tất cả tịnh pháp, đúng pháp lấy cỏ trải chỗ ngồi rồi kiết già phu tọa mà ăn, ḷng không ái trước cũng không sân hận cũng không cống cao không trược loạn. Lúc sắp ăn suy nghĩ rằng: Nay trong thân thể nầy có tám vạn hộ trùng, nó được ăn chắc sẽ an vui. Nay tôi dùng món ăn nhiếp các hộ trùng ấy, lúc tôi thành Phật sẽ dùng pháp để nhiếp chúng nó.
Nầy Đại Ca Diếp! Có lúc ăn chẳng đủ a lan nhă Tỳ Kheo nên quan niệm: Nay thân thể nhẹ nhàng có thể tu nhẫn nhục dứt các điều ác, lại ít tiểu ít đại tiện, thân thể nhẹ nhàng rồi cũng được tâm nhẹ nhàng, được ít ngủ cũng chẳng khởi dục.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu khất thực được nhiều, a lan nhă Tỳ Kheo nên quan niệm tri túc, nên giảm lấy một vắt để trên phiến đá sạch và suy nghĩ rằng: Có chim muông nào có thể ăn được tôi xin bố thí, chúng nó là kẻ thọ nhận.
Nầy Đại Ca Diếp! Ăn xong, a lan nhă Tỳ Kheo rửa bát lau chùi sạch khô, súc miệng rửa tay, cất Tăng già lê, đúng hạnh a lan nhă chẳng rời bổn sở suy gẫm pháp tướng.
Nầy Đại Ca Diếp! Lúc hành công hạnh a lan nhă, nếu Tỳ Kheo ấy là phàm phu chưa được quả Sa Môn, có lúc hổ lang đến th́ chẳng nên có ḷng hăi sợ mà nên quan niệm rằng: Từ trước lúc tôi đến chỗ a lan nhă vốn đă có tâm xả bỏ thân mạng nên tôi chẳng kinh sợ, mà nên phát tâm từ bi trừ tất cả ác. Nếu hổ lang ấy giết tôi ăn thịt tôi, tôi sẽ được lợi ích lớn v́ đem thân chẳng bền mà đổi thân bền. Hổ lang ấy ăn thịt tôi rồi nó sẽ được thân tâm an vui.
A lan nhă Tỳ Kheo hành pháp a lan nhă phải quan niệm xả thân mạng như vậy.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo hành pháp a lan nhă, nếu có phi nhơn đến hiện sắc đẹp hay sắc dữ, với phi nhơn ấy Tỳ Kheo không nên sanh ḷng yêu, không nên sanh ḷng giận.
Nếu có chư Thiên đă từng thấy Phật đến vấn nạn, khi họ vấn nạn rồi, a lan nhă Tỳ Kheo tùy sức hiểu biết của ḿnh mà v́ họ thuyết pháp. Nếu chư Thiên hỏi thâm pháp không thể đáp được, a lan nhă Tỳ Kheo chẳng nên ḷng kiêu mạn, mà nên nói rằng tôi học chẳng được nhiều, các Ngài chớ nên khinh tôi, nay tôi sẽ siêng tu học Phật pháp, nếu lúc tôi được thông Phật pháp rồi sẽ xin giải đáp tất cả. Lại nên thỉnh chư Thiên v́ ḿnh mà thuyết pháp để được lănh thọ, và nên tạ rằng xin các Ngài chớ phiền tôi.
Lại nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo hành pháp a lan nhă khéo tu a lan nhă tưởng như cỏ cây ngói đá không có chủ không có ngă cũng không sở thuộc, thân thể nầy cũng vậy không có ngă, nhơn, chúng sanh, thọ mạng không tranh tụng các pháp nầy đều từ duyên hiệp mà sanh, trong pháp nầy nếu khéo tư duy, tôi sẽ dứt được các kiến chấp, nên thường tư duy pháp không vô tướng vô tác.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo lúc tu pháp a lan nhă suy nghiệm bông trái cỏ thuốc và những rừng cây ḥa hiệp thế nào? Tán diệt thế nào? Các vật ngoài ấy không chủ không ngă không sở thuộc, không tranh tụng, nó tự sanh tự diệt khôngcó ai sanh diệt. Như cỏ cây không có chủ ngă ngă sở, thân thể nầy cũng không có ngă nhơn chúng sanh thọ mạng không có tranh tụng, nó từ các duyên sanh, duyên tan th́ nó diệt, trong lẽ như diệt ấy không có một pháp nào hoặc sanh hoặc diệt cả.
Pháp như trên đây, a lan nhă Tỳ Kheo đến chỗ a lan nhă phải nên tu tập.
Nầy Đại Ca Diếp! A lan nhă Tỳ Kheo hành pháp như vậy nếu học Thanh Văn thừa th́ mau chứng quả Sa Môn, nếu là người có tội chướng nên hiện đời chẳng được quả Sa Môn th́ bất quá thấy một hai hoặc ba Đức Phật sẽ dứt hết tất cả lậu. Nếu là người học Bồ Tát thừa th́ hiện đời được vô sanh pháp nhẫn được pháp vô chướng tất thấy vị lai chư Phật mau thành Vô Thượng Bồ Đề".
Lúc Đức Phật nói pháp a lan nhă, có năm trăm Tỳ Kheo dứt tất cả lậu tâm được giải thoát.
PHẨM A LAN NHĂ TỲ KHEO
THỨ NĂM
HẾT
Tiếp Tục
|
|