PHÁP HỘI DŨNG MĂNH THỌ TRƯỞNG GIẢ
THỨ HAI MƯƠI TÁM
Hán Dịch:Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chí
Việt Dịch:Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe, một lúc Đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, đều là A La Hán các lậu đă hết, không c̣n phiền năo, được thượng điều phục như đại long, chỗ làm đă xong, bỏ những gánh nặng đă được lợi ḿnh hết kiết sử các cơi, chánh trí giải thoát tâm được tự tại, tối thượng ứng cúng mọi người quen biết, chỉ có Ngài A Nan c̣n ở tại bực hữu học. Tên của các Ngài ấy là : A Nhă Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Thấp Ba, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Kiếp Tân Na, Ma Ha Câu Si La, Ma Ha Phạm Phả, La Hầu La, Nan Đà v.v...làm bực thượng thủ.
Lại có năm trăm đại Bồ Tát câu hội đều được tam muội và đà la ni.
Bấy giờ trong thành Xá Vệ có trưởng giả tên Dũng Mănh Thọ giàu có nhiều của báu kho đụn đầy tràn, những vàng bạc lưu ly xa cừ mă năo san hô hổ phách ma ni chơn châu voi ngựa ḅ dê kẻ hầu người hạ các loại buôn bán tất cả đều nhiều. Trưởng giả Dũng Mănh Thọ cùng năm trăm trưởng giả yến hội nghị rằng : "Nầy các Ngài ! Phật xuất thế khó, được thân người khó, gặp Phật cũng khó, ở trong Phật pháp do ḷng tin xuất gia cũng khó, thành tánh Tỳ kheo lại càng khó, đúng phép tu hành cũng khó, biết ơn báo ơn mang chút ơn chẳng quên người nầy khó có, ở nơi Phật pháp có thể sanh ḷng tin ưa người nầy khó được, tin ưa thành tựu việc nầy lại khó, trang nghiêm Phật pháp sự nầy cũng khó, giải thoát sanh tử càng khó gấp bội. Chúng ta v́ Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu tối thượng Phật thừa".
Mọi người đều xướng lên rằng : "Chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết Bàn".
Chúng trưởng giả quyết nghị xong cùng xuất thành đến rừng Kỳ Đà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba ṿng ngồi qua một bên.
Đức Thế Tôn biết mà cố ư hỏi : "Chư trưởng giả có duyên ǵ nay đến chỗ Phật?".
Trưởng giả Dũng Mănh Thọ cùng năm trăm trưởng giả đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay cung kính bạch Phật rằng : "Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng tôi đồng tập hội nghị rằng : Phật xuất thế khó, thân người khó được nhẫn đến giải thoát sanh tử càng khó gấp bội, nay chúng ta sẽ ở nơi Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu vô thượng Phật thừa ! Chúng tôi đồng xướng lên rằng : chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết Bàn. Do quyết nghị ấy mà chúng tôi đến chỗ Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Bạch Đức ThếTôn ! Đại Bồ Tát chí cầu Vô Thượng Bồ Đề, phải học thế nào ? Trụ thế nào? Tu thế nào ?".
Đức Phật nói : "Lành thay lành thay ! Các ông phát xu Vô Thượng Bồ Đề đến chỗ Phật phải lắng nghe kỹ khéo nghĩ nhớ lấy. Như chư đại Bồ Tát nên học nên trụ nên tu sẽ v́ các ông mà nói".
Chúng trưởng giả vâng lời dạy lắng nghe.
Đức Phật phán dạy : "Nầy chư trưởng giả ! Đại Bồ Tát ở nơi Vô Thượng Bồ Đề có chí nguyện thù thắng phải đối với tất cả chúng sanh khởi tâm đại bi, phải rộng tu hành phải siêng huân tập. V́ thế nên Bồ Tát ở nơi thân thể sanh mạng tài sản vợ con kho tàng nhà cửa uống ăn y phục xe cộ mền nệm hoa hương tất cả đồ dùng phải là không ái trước. Tại sao ? V́ chúng sanh chấp trước nơi thân mà tạo nghiệp ác, do nghiệp ác mà đọa trong địa ngục. Nếu đối với chúng sanh khởi tâm đại bi th́ chẳng chấp trước thân mạng tài và sẽ sanh thiện đạo. Đại Bồ Tát ở nơi Vô Thượng Bồ Đề có chí nguyện thù thắng đối với chúng sanh khởi từ bi rồi phải tu đại xả mà chẳng cầu báo, người chẳng cầu báo phải an trụ giới luật, ba giới thanh tịnh rồi phải đủ nhẫn nhục hay nhẫn các điều ác hại rồi nên phát khởi tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, nên tu nhứt tâm an trụ thiền định, nên tu trí huệ thiện xảo phương tiện, phải ở nơi ngă nhơn chúng sanh thọ mạng đều xả ly. V́ chúng sanh nên hành bố thí thọ tŕ cấm giới, v́ chúng sanh nên tu nhẫn nhục phát khởi tinh tiến, v́ chúng sanh nên nhập thiền định tu lập trí huệ thiện xảo phương tiện".
Chúng trưởng giả bạch Phật : "Bạch Đức Thế Tôn ! Ở nơi thân mạng và vợ con tất cả tài vật ḷng chúng tôi thường mến tiếc. Đại Bồ Tát quan sát thế nào ở nơi thân mạng tài có thể không tham lẫn?".
Đức Phật phán dạy : "Nầy thiện nam tử ! Đại Bồ Tát có chí nguyện thù thắng nơi Vô thượng Bồ Đề phải quan sát thân nầy có vô lượng lỗi họa, các vi trần tích tập sanh trụ dị diệt niệm niệm dời đổi, chín cửa chảy dơ như hang rắn độc, trong ấy không chủ như xóm hoang vắng, rốt ráo phá hoại như ngói b́nh chưa nung, nước dơ đầy tràn như chậu phẩn dăi, chứa những bất tịnh như hầm tiêu, chẳng động chạm đến được như nhọt dữ, tham ngon bị họa như món ăn lộn chất độc, chẳng biết ơn đức như vị Sanh Oán, khi dối mọi người như ác tri thức, bị si ái hại như làm bạn khỉ vượn, dứt mạng trí huệ như sát nhơn, đoạt các pháp lành như trộm cướp, thường t́m dịp hại như oán thù, không có từ tâm như người hàng thịt, khó hầu gần như kẽ bạo ác, như tên cắm vào thân động tới th́ đau như nhà hư mục phải luôn sửa sang, như xe cũ hư khó dùng, như hộp rắn độc khó gần, như quán trọ chỗ họp của kẻ mệt khổ, như nhà cô độc không bị nhiếp thuộc, như lính ngục chuyên hại, như vua lo nước, như thành tŕ biên giới phải pḥng sợ, như ác quốc nhiều tai họa, như chén bể khó cầm, như thờ lửa không chán, như dương diệm hư dối, như huyễn hóa mê hoặc người như lột dây chuối không lơi cứng, như khối bọt nước chẳng nắm cầm được, như bong bóng nước mau sanh mau diệt, như cây bờ sông lâm nguy lay động, như gịng sông chảy xiết trọn đến biển chết.
Bồ Tát lại quan sát thân nầy nhơn duyên trước sau của nó, ban đầu do dục ái ḥa hiệp mà sanh, v́ nuôi lớn lên nuốt đồ ăn vào đến sanh tạng đàm ấm tiêu hóa, kế vào đến huỳnh tạng lúc sắp thục th́ biến làm chất chua, kế vào đến phong tạng do phong lực chia ra nước và cặn bă lưu hành riêng thành đại tiện tiểu tiện. Nước biến ra máu, máu biến thành thịt, trong thịt sanh mỡ, nơi mỡ sanh xương, trong xương sanh tủy. Nhơn duyên của thân thể trước sau đều bất tịnh như vậy.
Khi quan sát như trên Bồ Tát lại nên suy nghĩ :Thân nầy do ba trăm sáu mươi khối xương ráp thành như nhà mục hư, các lóng đốt chi tŕ dùng bốn lưới mạch giăng bủa giáp ṿng, năm trăm phần thịt như bùn tô trét, sáu mạch cột nhau, năm trăm gân ràng rịt, bảy trăm mạch nhỏ dùng làm lạc bện, mười sáu mạch to câu mang liền nhau, có hai sợi dây thịt dài ba tầm rưỡi vấn gút nơi trong, mười sáu trường vị vây quanh sanh tạng thục tạng, hai mươi lăm mạch hơi như kẻ song, một trăm lẻ bảy cửa huyệt như b́nh bể nát, tám vạn lỗ lông như cỏ loạn trùm, năm căn bảy khiếu đầy tràn chất dơ, bảy lớp da gói ghém, lục vị nuôi lớn như thờ lửa nuốt thâu chẳng chán.
Thân thể như vậy tất cả hôi dơ tánh chất thúi ră. Có ai nên ái trọng nó mà sanh kiêu mạn. Chỉ nên quan sát nó như giữ cái b́nh, như ǵn chiếc xe, nuôi dưỡng nó để được đến Bồ Đề vậy".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Thân nầy là chậu dơ
Dường như b́nh đựng phẩn
Phàm phu không trí huệ
Cậy sắc sanh kiêu mạn
Trong mũi hằng chảy mũi
Hơi miệng luôn hôi hám
Mắt ghèn thân đầy trùng
Ai nên tưởng lạc sạch
Như người cầm ḥn than
Mài dồi muốn trắng bóng
Dầu mài đến ṃn hết
Thể sắt than không đổi
Dầu muốn thân ḿnh sạch
Rửa hết cả nước sông
Thân trọn không sạnh được
V́ thể chất vốn dơ.
Nầy các thiện nam tử ! Nếu Bồ Tát phát chí nguyện thù thắng hướng đến Vô Thượng Bồ Đề th́ nên quan sát thân thể nầy bốn mươi bốn thứ :
Một là thân nầy đáng chán v́ tánh không ḥa hiệp vậy. Hai là thân nầy hôi dơ v́ máu mủ thường chảy vậy. Ba là thân nầy chẳng bền v́ cứu cánh bại hoại vậy. Bốn là thân nầy yếu đuối v́ chi tiết tŕ nhau vậy. Năm là thân nầy chẳng sạch v́ chất dơ dáy đầy tràn vậy. Sáu là thân nầy như ảo thuật v́ phỉnh gạt phàm phu vậy. Bảy là thân nầy như miệng nhọt v́ cửu khiếu thường chảy vậy. Tám là thân nầy lửa cháy v́ lửa dục thạnh vậy. Chín là thân nầy là lửa v́ lửa giận mạnh vậy. Mười là cháy khắp v́ lửa si cháy khắp vậy. Mười một là thân nầy tối tăm v́ tham sân si vậy. Mười hai là thân nầy sa lưới v́ bị lưới ái trùm vậy. Mười ba là thân nầy là khối ung nhọt v́ đầy ung nhọt vậy. Mười bốn là thân nầy chẳng an v́ bốn trăm lẻ bốn bệnh vậy. Mười lăm là chỗ ở của côn trùng v́ tám vạn hộ trùng vậy. Mười sáu là thân nầy vô thường v́ cứu cánh phải chết vậy. Mười bảy là thân nầy ngoan si v́ không rơ các pháp vậy. Mười tám là như đồ sành v́ sanh trụ hoại vậy. Mười chín là bức bách v́ nhiều lo sầu vậy. Hai mươi là không được cứu hộ v́ chắc hoại diệt vậy. Hai mươi mốt là hiểm ác v́ siễm cuống khó biết vậy. Hai mươi hai là như hố không đáy v́ tham muốn không chán vậy. Hai mươi ba là như lửa nhận củi v́ tham sắc chẳng nhàm vậy. Hai mươi bốn là không nhàm đủ v́ tham thọ ngũ dục vậy. Hai mươi lăm là như bị đập đánh v́ bị tổn hại vậy. Hai mươi sáu là bất định v́ thạnh suy tăng giảm vậy. Hai mươi bảy là thân chuyển theo tâm v́ chẳng chánh tư duy vậy. Hai mươi tám là chẳng biết ơn v́ chắc bỏ g̣ mả vậy. Hai mươi chín là bị kẻ khác ăn v́ chồn sói kiến mối ăn vậy. Ba mươi là như bộ máy v́ gân xương chi tŕ vậy. Ba mươi mốt là chẳng khả quan v́ máu mủ phẩn dơ vậy. Ba mươi hai là chẳng tự do v́ phải nương uống ăn vậy. Ba mươi ba là hư vọng gói cột v́ trọn bại hoại vậy. Ba mươi bốn là ác hữu v́ nhiều nghịch hại vậy. Ba mươi lăm là kẻ giết hại v́ nó tự tàn hại vậy. Ba mươi sáu là đồ khổ họa v́ nhiều khổ bức bách vậy. Ba mươi bảy là khối khổ v́ năm uẩn sanh vậy. Ba mươi tám là không có chủ v́ các duyên sanh vậy. Ba mươi chín là không có mạng v́ rời ĺa tướng nam nữ vậy. Bốn mươi là rỗng không v́ phải quán uẩn giới xứ vậy. Bốn mươi mốt là hư vọng v́ như chiêm bao vậy. Bốn mươi hai là chẳng thiệt v́ như huyễn hóa vậy. Bốn mươi ba là huyễn hoặc v́ như dương diệm vậy. Bốn mươi bốn là thân nầy khi dối v́ như bóng tượng trong gương vậy.
Lúc quan sát thân thể như vậy, đối với thân mạng vợ con tài vật Bồ Tát đều ĺa chán không c̣n ái luyến mau thành tựu sáu Ba la mật sớm được Vô Thượng Bồ Đề".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Được thân người tốt rất là khó
Chớ v́ thân nầy tạo nghiệp ác
Cứu cánh g̣ hoang nuôi chồn sói
Chớ v́ ác kíến sanh tham ái
Phàm ngu mê hoặc v́ cuồng si
Do ái thân nầy tạo ác nghiệp
Thân nầy cũng lại chẳng biết ơn
Ngày đêm chỉ thêm duyên khổ họa
Cơ quan động chuyển thường mỏi nhọc
Mũi giải tiện lợi hằng tràn đầy
Đói khát nóng rét luôn bức ngặt
Nào có người trí lại ác thân
Thân nầy không nhàm như hố sâu
Luống hay nuôi lớn những oán hại
Do nơi thân nầy thường làm ác
Phải thọ khổ báo vô lượng kiếp
Nên nhớ già chết siêng tu phước
Chánh tín sanh vào trong Phật pháp
Uống ăn y phục các hương thoa
Dưỡng nuôi thân nầy đă từ lâu
Ai hay nắm giữ cho chẳng hoại
Phải biết vô ích chớ đam mê
Đức Phật Như Lai rất khó gặp
Trong vô lượng kiếp một lần hiện
Đối với Phật pháp nên tin sâu
Ác đạo đáng sợ chớ theo nó
Dầu cho sống lâu ngàn ức năm
C̣n sợ vô thường sanh ḷng chán
Huống là giây lát chẳng bảo đảm
Phải bị trầm luân trong ác đạo
Hoặc có ác hữu đến khuyên bảo
Thân người khó được nay đă được
Cầu nhiều của báu hưởng dục lạc
Kịp thuở khỏe mạnh vui chơi thỏa
Có ai cầu của mà sung sướng
Dầu được giữ ǵn vẫn khổ nhọc
Người ngu như vậy luống vọng ngôn
Thế nên người trí phải quan sát
Tài vật như ảo cũng như mộng
Chúng sanh ngu si bị phỉnh lầm
Trong sát na được sát na mất
Đâu có người trí lại mến luyến
Như nhà ảo thuật hóa ảo sự
Thành Càn Thát Bà nhiều h́nh sắc
Của báu cũng vậy gạt phàm ngu
Ở trong hư vọng nào có thiệt
Chịu nhiều khổ năo cầu tài lợi
Nước lửa vua giặc thường xâm đoạt
Do đây hay làm nhơn duyên khổ
Đâu có người trí sanh mến luyến
Có những kẻ thường hoài tham ái
Chạy theo tài lợi không biết chán
Đối với cha mẹ không từ tâm
Cho đến thân thuộc sanh oán hại
Lời nói thuận hành ḷng sâu độc
Gây tạo nhiều nghiệp duyên khi dối
Hoặc học tà luận tà chú thuật
Dối khoe tài nghệ như dâm nữ
Hoặc lại siểm cuống hiện nhu ḥa
Hoặc lại cang cường hiện oai mănh
Vô lượng ác nghiệp nhiều như vậy
Không ǵ chẳng do tài lợi sanh
San hô vàng ngọc châu ma ni
Vật ấy bổn lai như bọt bóng
Chẳng biết được nó như ảo hóa
V́ vật hư giả đọa tham đồ
Thời kỳ Di Lặc Phật xuất thế
Bổ xứ thành Phật nối Thích Ca
Cơi nước hoàng kim lót mặt đất
Thất bửu hiện ra từ đâu đến
Kiếp tận thế gian bị thiêu hoại
Tu Di sông biển khô cháy hết
Cứu cánh hư mất hoàn hư không
Những của báo nầy đi về đâu
Gây tạo nghiệp báo ác cầu tài vật
Nuôi nấng vợ con cho rằng vui
Đến lúc lăm chung khổ bức thân
Hoặc vợ hoặc con không cứu được
Ở trong tam đồ kinh sợ kia
Chẳng thấy vợ con cùng thân thuộc
Ngựa xe của báu thuộc người khác
Thọ khổ có ai chia sớt được
Cha mẹ anh em cùng vợ con
Bằng hữu bè bạn và của cải
Chết đi không một cùng gần kề
Chỉ có ác nghiệp thường theo sát
Người trí trọn chẳng v́ thân ái
Mà tạo nghiệp ác đọa a tỳ
Chỉ trừ nghiệp măn mới ra khỏi
Thân thuộc không ai thay thế được
Diêm La sứ giả chỉ khảo nghiệp
Chẳng hỏi thân quyến và bằng hữu
Người được thân người chẳng bỏ ác
Khổ sở nay phải cam nhận chịu
Diêm La thường bảo người tội ấy
Ta không gia được một chút tội
Người tự tạo tội nay tự đến
Nghiệp báo tự chiệu không ai thế
Cha mẹ vợ con không cứu được
Chỉ nên siêng tu nhơn xuất thế
Thế nên phải bỏ nghiệp xích xiềng
Khéo biết xa ĺa cầu an lạc
Với vợ con nhà nên biết sợ
Hằng nương Phật giáo chánh tu hành
Tại gia phùng thạnh là gốc khổ
Dường như ḷ lửa rất đáng sợ
Thân tâm nóng bức bị đốt cháy
Đâu có người trí sanh tham ái
Ưa thích tu hành các Phật pháp
Không hề doanh cầu là khoái lạc
Phàm phu ngu tối chẳng biết hay
Nhà là gốc khổ lại tham ái
Nơi khối da xương gân thịt kia
Mê lầm vọng tưởng là chồng vợ
Chẳng biết thân thể như ảo hóa
Phàm phu ngu tối sanh tham ái
Người trí biết thân là lỗi họa
Dục lạc trong đời đều vất bỏ
Cầu pháp phải như cầu lương dược
Phải mau bỏ ĺa dây tại gia".
Nghe pháp xong năm trăm trưởng giả được vô sanh nhẫn vui mừng hớn hở nói kệ rằng :
" Mừng thay được lợi lớn
Tối thượng trong lợi ích
Chúng tôi đối Phật pháp
Đều sanh ḷng vui thích
Phát xu đại Bồ Đề
Lợi lạc cho chúng sanh
Pháp lành dùng nuôi mạng
Giác huệ tự an tâm
Thương xót các chúng sanh
Nguyện sẽ thành Phật đạo
Chúng tôi đều đă phát
Tâm Bồ Đề vô thượng
Thân vàng tướng trang nghiêm
Chiếu sáng khắp thế giới
Người thích tâm Bồ Đề
Sẽ được thân Như Lai
Đại tâm Bồ Đề tâm
Tối thượng trong các tâm
Giải thoát tất cả phược
Đầy đủ các công đức
Các chúng sanh ít phước
Nơi đây không ưa thích
Chẳng nh́n lỗi sanh tử
Chẳng thích tâm Bồ Đề
Tâm Bồ Đề công đức
Nếu có sắc phương phần
Rộng khắp cơi hư không
Không ǵ dung chứa được
Trong sát độ chư Phật
Nhiều như các sông Hằng
Giả sử trải trân bửu
Dùng cúng dường chư Phật
Có người hay chấp tay
Hồi hướng tâm Bồ Đề
Phước đây hơn phước trên
Chẳng thể suy tính được
Nào riêng phước cúng dường
Phước khác cũng như vậy
Tâm Bồ Đề như vậy
Đấng Tối Thắng tuyên nói
Tâm Bồ Đề tối thắng
Như thuốc a già đà
Trừ được tất cả bịnh
Cho tất cả an vui
Tôi thấy các chúng sanh
Bị ba độc nhiệt năo
Trí giả vô lượng kiếp
Cần khổ thường tu tập
Như Y Vương dũng mănh
Đầy đủ hạnh Bồ Đề
Cứu vớt chúng sanh khổ
Ĺa hẳn các ưu năo
Tất cả chỗ thọ sanh
Trọn chẳng bỏ tâm nầy
Siêng tu các hạnh nguyện
Dũng mănh cầu Phật pháp
Chúng tôi được lợi lành
Chúng tôi ḷng vui thích
Nay gặp Phật Thích Ca
Sẽ được thân Như Lai".
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ diện môn của Đức Phật phóng ra những thứ tia sáng xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê chiếu đến vô lượng vô biên thế giới cho đến trời Phạm Thế, oai quang của nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất, trở về nhiễu ba ṿng rồi nhập vào đảnh Phật.
Tôn giả A Nan đứng vậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch Đức Phật rằng : "Bạch thế Tôn ! Có nhân duyên ǵ mà Đức Phật mỉm cười".
Tôn giả liền nói kệ rằng :
" Chư Phật là Đạo Sư tối thượng
Chẳng không duyên cớ hiện mỉm cười
Đấng thương xót lợi ích thế gian
Xin nói nhơn duyên của sự ấy
Chúng sanh nghèo thiếu không pháp tài
Nên ban nói thừa lớn tối thượng
Hay làm mắt sáng cho thế gian
Xin nói nhơn duyên Phật cười mỉm".
Đức Phật phán dạy : "Nầy A Nan ! Ông có thấy năm trăm trưởng giả nay ở trước Phật phát tâm Vô Thượng Bồ Đề chăng ?
- Vâng tôi đă thấy, bạch Đức Thế Tôn !
- Nầy A Nan ! Năm trăm trưởng giả nầy thuở xưa đă ở nơi trăm ngàn ức na do tha chư Phật thừa sự cúng dường, trồng các thiện căn, nay nghe ta nói pháp đều được vô sanh nhẫn. Các trưởng giả nầy về sau chẳng c̣n sanh ác đạo thường thọ khoái lạc trong Nhơn Thiên. Đời sau ở chỗ Phật Di Lặc, các trưởng giả nầy thân cận cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, với tất cả chư Phật trong Hiền kiếp cũng như vậy, ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp thọ tŕ đọc tụng v́ người mà giảng nói. Quá hai mươi lăm kiếp, các trưởng giả nầy sẽ ở trong các Phật độ thành Vô Thượng Bồ Đề đều thành một danh hiệu Thắng Liên Hoa Tạng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác".
Tôn Giả A Nan bạch Đức Phật : " Hi hữu Thế Tôn ! Hi hữu Thiện Thệ ! Nên đặt tên pháp môn quảng đại nầy là ǵ, chúng tôi phải thọ tŕ thế nào ?".
Đức Phật phán dạy : "Nầy A Nan ! Pháp môn nầy tên là Du Già Sư Địa, cũng gọi là Dũng Mănh Thọ Trưởng Giả Sở Vấn, ông nên thọ tŕ".
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tôn Giả A Nan và các Tỳ Kheo năm trăm trưởng giả các chúng Bồ Tát, Trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI DŨNG MĂNH THỌ TRƯỞNG GIẢ
THỨ HAI MƯƠI TÁM
HẾT
|
|