Trang Mục Lục      Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 
PHÁP HỘI BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán dịch: Nhà Đường, Tam Tạng Pháp Sư Bồ đề Lưu Chi
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

PHẨM LỤC GIỚI SAI BIỆT
THỨ HAI MƯƠI LĂM

Bấy giờ Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc thấy A Tu La nhẫn đến trời Quảng Quả cúng dường Phật được thọ kư, cũng nghe trời Tịnh Cư nói kệ tán thán Phật, lại thấy ngoại đạo cũng được thọ kư, nhà vua suy nghĩ rằng : Việc ấy hi hữu chẳng nghĩ bàn được. Đức Thế Tôn rất khéo nói như vậy, tất cả thế gian rồi đều vui mừng.

Do ái luyến con trai ḿnh nên Tịnh Phạn Vương đối với Đức Phật t́nh ư rất ân cần.

Đức Thế Tôn nói với Tịnh Phạn Vương rằng : "Pháp của Phật nói, trước giữa sau đều thiện cả, nghĩa ấy sâu xa, vị ấy thuần thiện thanh tịnh không xen tạp thanh bạch không ô nhiễm, nói rơ pháp phạm hạnh. Những phạm hạnh ǵ? Đó là pháp môn phân biệt lục giới. Nay vua nên lắng nghe khéo suy nghĩ Phật sẽ v́ vua mà nói".

Vua nói : "Lành thay, nay tôi nghe kỹ xin Phật nói rơ cho".

Đức Phật nói : " Nầy Đại Vương! Ǵ là pháp môn phân biệt lục giới?

Nầy Đại Vương! Lục giới được nói đó là trượng phu, lục xúc nhập cũng là trượng phu, thập bát ư thức cảnh giới cũng là trượng phu.

Nầy Đại Vương! Cớ ǵ Phật nói lục giới tức là trượng phu? Những ǵ là lục giới? Đó là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới. Nói rằng lục giới là trượng phu đó là đây vậy.

Cớ ǵ Phật nói lục xúc nhập gọi là trượng phu? Nhũng ǵ là lục xúc nhập? Đó là v́ nhăn xúc nhập thấy các sắc, nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy, nhẫn đến v́ ư xúc nhập biết các pháp.

Nói rằng lục xúc nhập là trượng phu đó là đây vậy

Cớ ǵ Phật nói mười tám ư thức cảnh giới là trượng phu? Ǵ là mười tám ư thức cảnh giới? Đó là nhăn thấy được sắc khả ư do ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc bất khả ư cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc xả ư cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác. Nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy. Nhẫn đến ư biết pháp khả ư, biết pháp xả xứ ư đều ức tưởng phân biệt.

Nói rằng thập bát ư thức cảnh giới là trượng phu đó là đây vậy.

Nầy Đại Vương! Địa giới có hai thứ : nội và ngoại.

Nội địa giới là trong tự thân được có những thứ cứng rắn có được có lấy như là tóc lông móng răng da thịt gân xương tủy năo ngũ tạng lục phủ đại tiện

Ngoại địa giới là ngoài thân có những thứ cứng rắn chẳng được chẳng lấy.

Nầy Đại Vương! Địa giới trong thân, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đi đâu.

Nầy Đại Vương! Có lúc nữ nhơn tự phân biệt tôi là nữ nhơn, thấy nam tử kia lại sanh phân biệt kia là nam tử, bèn sanh ư tưởng dục ưa muốn ḥa hiệp mà sanh ái nhiễm nơi nam tử ấy.

Có lúc nam tử ấy tự phân biệt tôi là nam tử, thấy nữ nhơn kia bèn sanh phân biệt kia là nữ nhơn rồi sanh ái nhiễm. Nam tử và nữ nhơn ấy đều sanh ái nhiễm mà cùng ḥa hiệp. Do ḥa hiệp mà có ca la lă.

Nầy Đại Vương! Nam tử phân biệt ấy và sự được phân biệt, cả hai đều bất khả đắc, nam tử và tánh nam tử cũng bất khả đắc, do đó chẳng tương tục mà sanh phân biệt. Phân biệt ấy tự tánh cũng bất khả đắc. Như phân biệt tự tánh bất khả đắc, ḥa hiệp và ḥa hiệp tự tánh cũng bất khả đắc, ca la lă và ca la lă tự tánh cũng bất khả đắc.

Nếu tự tánh bất khả đắc th́ nó làm sao sanh được yết bồ đàm?

Nầy Đại Vương! Nhơn phân biệt mà sanh ra có thứ cứng rắn ấy. Thứ cứng rắn lúc sanh không có từ đâu đến.

Nầy Đại Vương! Có lúc thân nầy rốt cuộc làm tử thi. Tử thi cứng rắn ấy lúc biến hoại nó chẳng về phương Đông cũng chẳng về phương Nam phương Bắc phương Tây bốn cạnh trên dưới.

Như trên ấy, đó là nội thân địa giới.

Nầy Đại Vương! Có lúc thế gian đây đều trống rỗng, lại sanh Phạm Thiên cung điện thất bửu. Tướng cứng rắn của cung điện ấy lúc sanh không từ đâu đến.

Tướng cứng rắn của cung điện thất bửu trời Tha Hóa Tự Tại, trời Hóa Lạc, trời Đâu Suất, trời Dạ Ma, trời Đao Lợi, trời Tứ Thiên Vương, lúc sanh không từ đâu đến.

Núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi cứng rắn, lúc sanh không từ đâu đến. Nhẫn đến núi Tu Di, khắp cơi tam thiên Đại Thiên, tất cả thứ cứng rắn trong ấy, lúc sanh không từ đâu đến.

Đại địa này dày một trăm sáu mươi vạn do tuần, lúc sanh không từ đâu đến.

Nầy Đại Vương! Có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, đại địa nầy hoặc bị lửa cháy nát, hoặc bị nước trôi ră, hoặc bị gió thổi tan. Lúc lửa cháy đại địa nầy cho đến khói tro không c̣n thấy, như dầu tô bị lửa cháy tan biến không sót thừa, như lấy muối bỏ vào nước tiêu tan hết cả. Lúc bị gió thổi hoại cũng không c̣n sót thừa, như gió mạnh tỳ lam thổi tan mất bầy phi điểu không c̣n sót thừa. Địa giới trong ấy lúc tan diệt cũng không đi đâu.

Nầy Đại Vương! Đúng vậy đúng vậy, nội thân địa giới và ngoại thân địa giới, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó trụ cũng không. Sanh và trụ hai thời gian thể tánh đều không.

Nầy Đại Vương! Thủy giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.

Nội thân thủy giới là những thứ nước, tánh nước, thể nước, hoặc nhuần, tánh nhuần, thể nhuần ở trong thân, như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước miếng, mủ, máu, đàm, mỡ, tủy, sữa, tiểu tiện.

Ngoại thân thủy giới là những nước tánh nước thể nước và nhuần tánh nhuần thể nhuần mà thân chẳng được chẳng nhiếp.

Nầy Đại Vương! Thủy giới trong thân ấy, lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Như lúc thấy người yêu thương th́ trong mắt chảy nước mà lúc bị khổ bức trong mắt cũng chảy nước, lúc nghe pháp kính tin nước mắt chảy ra mà bị phong hàn cũng chảy nước mắt, lúc mắt nhặm đỏ cũng vậy. Nước mắt ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đi đâu.

Nầy Đại Vương! Có lúc thủy giới trong thân tăng trưởng quá nhiều có thể diệt hỏa giới trong thân. Lúc hỏa giới ấy diệt, nó không đi đến đâu. Có lúc hỏa giới trong thân quá tăng thạnh hay làm khô cạn thủy giới trong thân. Lúc bị đốt cạn, thủy giới ấy đi không đến đâu.

Nầy Đại Vương! Hỏa giới và thủy giới trong thân ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đi đâu. Lúc sanh nó cũng không, lúc diệt nó cũng không, thể tánh nó tự không.

Nầy Đại Vương! Có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc thế giới nầy sắp hoại, trong không gian nổi lên ba mươi hai lớp mây đầy trùm trắp tam thiên Đại Thiên thế giới đến năm trung kiếp mưa lớn không dứt, giọt mưa như tượng vương đái. Sau đó lại trải qua năm trung kiếp mưa thật to lớn, nước ngập đầy đến Phạm Thiên.

Nầy Đại Vương! Thủy giới to lớn ấy, lúc đầu sanh không từ đâu đến.

Nầy Đại Vương! Lại có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, trong thế giới nầy có hai mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ suối nguồn sông nhỏ đều khô cạn.

Kế đến có ba mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ sông ng̣i đều khô cạn, kế đến có bốn mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ nguồn nước của các sông lớn đều khô hết.

Kế đến có năm mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ nước trong đại hải lần lần khô cạn từ một do tuần đến hai ba bốn năm do tuần, lần lần khô cạn đến mười do tuần, trăm do tuần, ngàn do tuần, vạn do tuần, đến bốn vạn bốn ngàn do tuần đều khô cạn.

Bấy giờ nước c̣n thừa trong đại hải từ bốn vạn do tuần, lần lần c̣n ba vạn, hai vạn, một vạn, chín ngàn, tám đến c̣n một ngàn do tuần, lần lần cạn c̣n thừa chín trăm tám trăm đến một trăm do tuần, lần lần cạn c̣n thừa chín mươi đến c̣n mười do tuần, cạn lần c̣n thừa chín đến một do tuần, cạn lần c̣n thừa năm dặm đến mười đa la thọ, chín đến c̣n một đa la thọ, cạn lần cho đến chỉ c̣n vũng ướt như dấu chưn.

Bấy giờ trong đại hải chỉ c̣n chút tướng ẩm ướt như lúc trời mưa thoạt ướt thoạt khô.

Lần đến lúc trong đại hải hơi ướt chỉ c̣n thấm mặt ngón tay.

Nầy Đại Vương! Thủy giới ấy lúc lần lần diệt, nó đi chẳng đến đâu, mười phương đều không đến. Lúc sanh nó cũng không, lúc trụ nó cũng không, lúc diệt nó cũng không. Tánh thủy giới ấy bất khả đắc chỉ có riêng tác dụng thôi. Nhưng riêng tác dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ không có tướng để được.

Nầy Đại Vương! Hỏa giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.

Nội hỏa giới là trong thân chỗ có hỏa, hỏa thể, hỏa tướng và nhiệt, nhiệt thể, nhiệt tướng. Đó là trong thân có hơi ấm nóng hay làm tiêu hóa thức uống ăn nhập vào số nhiệt độ ấy.

Ngoại hỏa giới là những hỏa, thể hỏa, tướng hỏa và hơi ấm nóng ở ngoài thân chẳng lấy chẳng thọ ấy.

Nầy Đại Vương! Có lúc ca la lă trong bào thai, thân nội hỏa giới tăng thạnh làm thủy giới lần kém nên ca la lă đặc lần cứng lần. Như đồ kim khí do hỏa lực mà lần cứng rắn. Ca la lă cứng đặc th́ gọi là yết bồ đàm. Yết bồ đàm do hỏa lực mà thành tên là Ty Thi Ca. Ty Thi Ca do hỏa lực mà thành tên là Kiên Cố. Kiên Cố do hỏa lực mà thành mọc ra năm nhánh.

Đúng vậy, nầy Đại Vương! Thủy giới ấy do hỏa giới thành thục như vậy như vậy. Thủy giới ấy lần đặc lần cứng mà thành khối thịt.

Nầy Đại Vương! Lúc hỏa giới ấy sanh, nó không từ đâu lại mà có thể đốt tiêu thủy giới.

Nầy Đại Vương! Có lúc trong thân người hỏa giới lần diệt tận. V́ hỏa giới diệt tận nên đồ ăn uống không tiêu hóa mà người bệnh ấy không thể ăn uống được. V́ không ăn uống được nên hỏa giới diệt hết mà người bệnh phải chết.

Nầy Đại Vương! Hỏa giới lúc diệt, nó chẳng đi đến mười phương. Lúc sanh nó cũng không, lúc diệt nó cũng không, mà hỏa giới ấy từ nào thể tánh nó tự không.

Nầy Đại Vương! Có thời kỳ thế giới hư hoại. Lúc thế giới hoại hỏa giới ngoài thân tăng thạnh cháy đỏ suốt khắp cả tam thiên Đại Thiên thế giới.

Nầy Đại Vương! Lửa ngoài thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.

Nầy Đại vương! Lại có lúc khối lửa lớn ấy cháy khắp cơi Đại Thiên rồi tắt. Lúc lửa ấy diệt, nó chẳng đến đâu, chẳng đến mười phương.

Nầy Đại Vương! Hỏa giới ngoài thân ấy, lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không, chẳng phải có, chẳng thể được. Chỉ là riêng dụng, nhưng riêng dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ.

Nầy Đại Vương! Phong giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.

Ǵ là phong giới trong thân? Trong thân ḿnh và trong thân người được có phong giới bị thọ bị lấy, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật, danh tốc tật. Đó là ở nơi tứ chi là phong, ở nơi tỳ vị là phong đi nơi năm vóc là phong, đi nơi lóng đốt chi phần là phong, hơi thở ra vào cũng là phong. Nói tóm lại, đi khắp trong thân thể đều là phong.

Có lúc phong giới trong thân ấy tăng thạnh tập hiệp có thể làm cho thủy giới khô khan, cũng có thể làm tổn giảm hỏa giới, do đó thân người không nhuận trạch cũng không ấm nóng, bụng ph́nh trướng, tay chưn co cứng, các mạch máu căng đầy, gân lóng rút giựt rất đau khổ hoặc phải chết.

Nầy Đại Vương! Phong giới trong thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.

Nầy Đại vương! Người bịnh phong ấy hoặc gặp lương y cho đúng thuốc hay nên bịnh phong dứt hết. Lúc phong giới ấy diệt, cũng không đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó diệt cũng không, thể tánh nó tự không.

Ǵ là phong giới ngoài thân?

Nầy Đại Vương! Ngoài thân được có, thân chẳng thủ chẳng thọ, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật, danh tốc tật, đây gọi là phong giới ngoài thân.

Nầy Đại Vương! Có lúc ngoại phong giới ấy tăng thạnh tập hiệp làm rụng lá găy nhánh, găy cây trốc gốc, lở non ngă núi, tan nát thành vi trần, cả cơi Đại Thiên nầy bị gió mạnh ấy thổi lăn chuyển xoay tṛn. Như thợ gốm lấy gậy xoay chuyển ṿng khuôn, cơi Đại Thiên nầy bị gió thổi xoay tṛn cũng vậy. Như chút ít bột mịn bị gió thổi tan khó thấy được, cơi Đại Thiên nầy bị gió mạnh thổi tan thành vi trần cũng khó thấy được. Như lúc có gió lớn lấy nắm đất rải theo gió bay tan khó thấy được, cơi Đại Thiên nầy lúc bị gió mạnh thổi tan cũng khó thấy được như vậy.

Nầy Đại Vương! Phong giới ngoài thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.

Lại như đầu mùa hạ không gió cây cỏ khô héo.

Nầy Đại Vương! Ngoại phong giới ấy, lúc diệt nó không đi đâu.

Phong giới ấy lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không.

Nầy Đại Vương! Nội phong giới và ngoại phong giới ấy, cả hai đều không. Thể tánh nó tự ly, tướng cũng tự ly, tánh cũng bất khả đắc, tướng diệt cũng ly.

Tại sao? V́ phong giới ấy chẳng phải tác, không có tác giả vậy.

Nầy Đại Vương! Ǵ là hư không giới? Nó cũng có hai thứ : nội và ngoại.

Ǵ là nội hư không giới? Hoặc trong thân ḿnh, hoặc trong thân người được thọ được lấy, đó là hư không, thể hư không, danh hư không, trong thân sanh ra ấy nhập vào số các ấm các xứ và các giới bao nhiêu những lỗ huyệt. Đây gọi là nội hư không giới.

Ǵ là ngoại hư không giới? Đó là ngoài thân có chẳng phải sắc, rỗng không nhẫn đến không có như lông nhỏ ấy gọi là hư không. Đây gọi là ngoại hư không giới.

Nầy Đại Vương! Có lúc do nghiệp nhơn duyên nên sanh các nhập. Các nhập ấy được sanh rồi vây quanh không giới, bấy giờ được gọi là vào số nội hư không giới.

Nầy Đại Vương! Trong mỗi mỗi pháp như vậy suy cầu không một nhăn nhập có thể được, chỉ có tác dụng.

Nầy Đại Vương! Do cớ ǵ mà không? V́ địa giới thanh tịnh vậy. Như địa giới thanh tịnh nên không, thủy hỏa phong giới thanh tịnh nên cũng không như vậy, nó không từ đâu đến.

Nầy Đại Vương! Có lúc tất cả các sắc đều hoại diệt làm hư không. Tại sao? V́ hư không giới vô tận vậy.

Nầy Đại Vương! Chỉ nội hư không giới an trụ bất động.

Như vô vi Niết-bàn giới an trụ bất động, phải biết hư không giới khắp tất cả chỗ cũng vậy.

Nầy Đại Vương! Như có người ở đồng hoang trống đào đất làm ao làm giếng. Ư Đại Vương thế nào, hư không ấy từ đâu đến?

- Bạch Thế Tôn! Nó khônng từ đâu đến.

- Nầy Đại Vương! N&ếu người ấy lấy đất lấp lại. Ư Đại Vương thế nào, hư không ấy đi đến đâu?

- Bạch Thế Tôn! Nó không ૕i đến đâu. Tại sao? Bạch Thế Tôn! Hư không giới ấy không đến không đi. Tại sao? V́ hư không giới ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Ngoại hư không giới cũng bất động tánh nó không biến đổi. Hư không giới rỗng không chẳng phải là pháp có. Tại sao? V́ hư không giới chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy.

Nầy Đại Vương! Ǵ là thức giới?

Như nhăn làm chủ phan duyên nơi sắc, v́ đối sắc mà biết nên thức sanh ra hoặc biết được xanh vàng đỏ trắng các màu sắc, cũng biết được dài vắn to nhỏ các h́nh sắc. Tất cả những vật sắc mà nhăn thức thấy được ấy gọi là nhăn thức giới.

Cũng vậy, hoặc biết tiếng, biết hương, biết vị, biết xúc, hoặc biết pháp, hoặc biết sáu căn sở duyên sở tri th́ gọi đó là nhĩ thức giới đến gọi là ư thức giới.

Nầy Đại Vương! Lại thức giới ấy chẳng y nương các căn, cũng chẳng y nương nơi giới. Tại sao? V́ chẳng phải địa tịnh sắc làm nhăn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong tịnh làm nhăn nhập. Tại sao? Chẳng phải địa giới thanh tịnh và các pháp khác làm nhăn nhập và người có đủ nhăn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong giới thanh tịnh sắc và các pháp khác làm nhăn nhập và người có đủ nhăn nhập. Tại sao? V́ các pháp vô tri vô liễu biệt vậy, không kham năng vậy, chẳng phải sơ trung hậu vậy, chẳng phải nội ngoại trung gian vậy.

Nầy Đại Vương! Thức giới ấy biết cảnh trước rồi liền dứt mất chẳng c̣n sanh lại. Thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không chỗ đến.

Nầy Đại Vương! Ǵ gọi là nhăn nhập?

Đó là bốn đại chủng cấu thành sắc thanh tịnh. Các pháp thể tánh nếu là tự không, th́ có ǵ là thanh, có ǵ là trược. Trong các pháp không có tịnh uế th́ sao lại ở trong các pháp mà thấy có tịnh uế.

Như vậy, nầy Đại Vương! V́ thế nên biết nhăn nhập quyết định thể tánh cứu cánh không tịch, tiền tế hậu tế đều bất khả đắc. Tại sao?

V́ vị lai chưa đến nên bất khả đắc, quá khứ đă diệt nên cũng bất khả đắc. Vị lai và sự vị lai bất khả đắc. Nhăn xứ ấy cũng bất khả đắc, v́ tự tánh ly vậy. Nếu thể tánh bất khả đắc th́ cũng không có được tánh nam tánh nữ. Đă không có tánh nam tánh nữ th́ nào có ngă ngă sở.

Nầy Đại Vương! Nếu có ngă ngă sở, đó là cảnh giới ma. Không ngă không ngă sở th́ gọi là cảnh giới chư Phật Như Lai. Tại sao? V́ tất cả pháp ly ngă ngă sở vậy.

Nầy Đại Vương! Như thiệt biết rơ nhăn nhập không, nhăn nhập tự tánh không, tại sao? V́ nhăn nhập ấy tướng nó bất khả đắc, thế nên nhăn nhập ấy thể tánh nó không tịch. Tánh không ấy ly tướng nhăn nhập, đây gọi là vô tướng. Ở nơi tướng không mong cầu nên gọi là vô nguyện. Đây là ở nơi nhăn nhập ba môn giải thoát hiện ra trước.

Nầy Đại Vương! Ǵ là nhĩ nhập giới đến thân nhập giới?

Nầy Đại Vương! Tất cả pháp ấy đối ba giải thoát môn, hiện tiền quyết định đến pháp giới cứu cánh khắp hư không, chẳng gọi được, chẳng nói được, chẳng dùng được, chẳng chỉ được, không tranh luận, không ngữ ngôn, chẳng đo lường được.

Nầy Đại Vương! Đem nhăn đối sắc gọi là điên đảo, nhĩ đối thanh, tỷ đối hương, thiệt đối vị, thân đối xúc, ư đối pháp gọi là điên đảo. V́ thế các pháp gọi là ư cảnh giới.

Nầy Đại Vương! Nhăn nhập đối sắc qua thấy lấy dính có ba thứ ngại : ngó thấy cảnh thuận sanh ư tưởng ái luyến, nếu thấy cảnh trái sanh ư tưởng sân khuể, thấy cảnh trung dung sanh ư tưởng không tham không sân, năm nhập kia đối cảnh cũng có ba thứ ngại như vậy, nếu duyên cảnh thuận sanh tâm ái, duyên cảnh nghịch sanh tâm sân, duyên cảnh trung dung sanh tâm ngu hoặc. Cảnh giới như vậy là chỗ sở hành của ư. V́ ư đi khắp nên gọi là ư cảnh giới.

Nầy Đại Vương! Ư ấy hành nơi sắc thuận th́ sanh tham dục, hành nơi sắc trái th́ khởi sân nộ, hành sắc trung dung th́ khởi ngu si. Như vậy, ư hành nơi thanh hương vị xúc cũng đều có ba sự khởi tham sân si. Nghĩa là ư duyên cảnh thuận ư pháp sanh tham dục, ư duyên cảnh trái ư pháp sanh sân khuể, ư duyên cảnh trung dung ư pháp sanh khởi vô minh ngu si.

Nầy Đại Vương! Phải như vậy mà biết nơi các căn dường như ảo hóa, biết cảnh giới ấy như mộng.

Nầy Đại Vương! Như người trong mộng cùng các thể nữ và đại chúng vui vầy. Người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự việc trong mộng nào đại chúng nào các thể nữ. Ư Đại Vương thế nào, sự việc được thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thi&ệt

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy đang lúc ở trong mộng cho là thiệt, có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ph𓉫i trí. Tại sao? Đại chúng và thể nữ được thấy trong mộng cứu cánh là không, cũng là bất khả đắc, huống lại cùng nhau vui vầy. Người ấy chỉ tự khổ nhọc, trọn không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Các phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy sắc khả ư, mắt thấy sắc rồi sanh ḷng chấp trước, sanh chấp trước rồi khởi ḷng ái trọng, khởi ái trọng rồi sanh tâm nhiễm trước, sanh nhiễm trước rồi làm nghiệp trước, đó là thân ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp và ư ba nghiệp, tạo nghiệp rồi liền dứt mất, nghiệp ấy dứt rồi nó chẳng y nương ở mười phương, nghiệp ấy nhẫn đến lúc lâm chung thức tối hậu diệt thấy việc từ trước hiện ra trong tâm tưởng.

Nầy Đại Vương! Người ấy, tự phần nghiệp dứt hết, nghiệp khác hiện ra, giống như từ mộng thức dậy rồi nhớ sự việc trong mộng.

Nầy Đại Vương! Như vậy, thức tối hậu làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong phần sanh thức tâm bắt đầu khởi hoặc sanh địa ngục, hoặc sanh súc sanh, hoặc sanh giới diêm ma la, hoặc sanh A Tu La, hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đă diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nầy đến đời khác, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp, cũng không người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Lúc tối hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh th́ gọi là sanh số.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp ấy, nghiệp thể tánh không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ, thể tánh thọ không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Như vậy, tác nghiệp và quả báo không hư mất, không có người tác nghiệp, cũng không có người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp Không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đă không có tướng th́ cũng không có nguyện cầu gọi là vô nguyện giải thoát môn.

Nầy Đại Vương! Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng với không đi chung, đường trước là Niết Bàn, xa rời các tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Nên biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người trong mộng đấu với kẻ oán thù. Người ấy thức dậy rồi ghi nhớ cùng kẻ địch đấu nhau. Ư Đại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy ở trong mộng cho sự ấy là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không pphải là trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có kẻ oán địch, huống là chiến đấu. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

Nầy Đại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy sắc bất khả ái, ḷng họ chẳng vui thích mà sanh chấp trước rội khởi sân khuể làm cho tâm trược loạn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba, miệng bốn, ư ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt mất. Nghiệp ấy dứt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng.

Nầy Đại Vương! Người ấy thấy nghiệp ấy hiện rồi, ḷng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như lúc thức dậy nhớ sự trong mộng.

Nầy Đại Vương! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên. Do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm bắt đầu khởi, hoặc sanh địa ngục súc sanh ngạ quỉ, hoặc sanh A Tu La Nhơn Thiên. Thức trước diệt rồi, sanh phần thức sanh. Sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau nhưng mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt th́ gọi là tử số, nếu sơ thức sanh th́ gọi là sanh số.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi, nó không từ đâu đến, đến lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử cũng không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp ấy, thể tánh nghiệp không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức ấy, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh ấy, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp Không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không nên là vô tướng giải thoát môn. Nếu đă vô tướng th́ không có nguyện cầu nên gọi là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết Bàn là con đường trước, xa ĺa các tướng, xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như có người ở trong chiêm bao bị quỉ nhiễu năo ḷng họ kinh sợ. Thức dậy, người ấy ghi nhớ quỉ trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, quỉ được thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy ở trong mộng cho là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không pphải là trí. Tại sao? V́ trong mộng quỉ c̣n không có huống là sợ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại vương! &nnbsp;Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy xả xứ sắc ḷng họ chấp trước rồi tạo nghiệp chấp trước nơi thân ba miệng bốn ư ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.

Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đă tạo từ trước hiện ra trong tâm tưởng.

Nầy Đại Vương! Người ấy thấy rồi ḷng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, giống như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.

Nầy Đại Vương! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v. v... đến sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tác nghiệp và thọ báo.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp Không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu đă vô tướng th́ không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi chung với không. Niết Bàn là con đường trước, xa ĺa các tướng, xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người trong mộng thấy nữ nhơn đoan chánh đệ nhứt trong nước, ở bên nữ nhơn ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhơn nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt không?

- Bạch Thế Tôn! Không tthiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Trong mộng người ấy cho là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không pphải trí. Tại sao? Trong mộng nữ nhơn và âm nhạc cứu cánh đều không huống là vui ngũ dục. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nữ nhơn và nghe âm nhạc thích ư sanh ḷng nhiễm trước rồi tạo nghiệp nhiễm trước nơi thân ba miệng và ư ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đă làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh ḷng kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sinh ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng.

Nầy Đại Vương! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai nhơn duyên nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v. v... đến trong Nhơn Thiên. Thức ấy diệt rồi sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báu đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp Không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đă vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều có đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết Bàn là con đường trước, xa ĺa các tướng, xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ đều phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Tai nghe ác thanh, sanh khởi ác tâm.

Nầy Đại Vương! Như người trong mộng thấy thân ái biệt ly ḷng họ rất khổ năo buồn rầu khóc kể, hoặc ly biệt cha mẹ vợ con quyến thuộc yêu thương. Ư Đại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không tthiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự trong mộng là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí, Tại sao? V́ thân ái biệt ly được thấy trong mộng ấy cứu cánh không có huống là buồn khóc. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nghe ác thanh liền chấp trước nên sanh ḷng chẳng ưa rồi giận hờn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba miệng bốn và ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đă làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy sanh rồi ḷng kinh sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng. Cũng vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai nhơn duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi hoặc sanh địa ngục v. v...đến sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời này đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy, lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp Không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đă vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết Bàn là con đường trước, xa ĺa các tướng, xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Tai nghe xả thanh, khởi xả tướng.

Như người trong mộng nghe câu chẳng rơ nghĩa. Thức dậy, người ấy ghi nhớ tiếng được nghe trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, tiếng nghe trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không tthiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy nằm mộng cho là thiệt th́ có phải là trí không?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có âm thanh để được, huống là có câu liễu nghĩa câu bất liễu nghĩa. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ nghe xả thanh bèn chấp trước nên mê hoặc mà tạo nghiệp ngu si nơi thân ba miệng bốn và ư ba thứ nghiệp. Nghiệp được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.

Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy sự đă làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi tâm sanh chấp trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ tiếng câu chẳng rơ nghĩa được nghe trong mộng.

Nầy Đại Vương! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v. v...đến, hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đă diệt, thức thọ sanh phần sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay, đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy không mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ v́ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Tất cả pháp đều không tịch.

Tất cả pháp Không là không giải pháp môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu vô tướng th́ không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết Bàn là con đường trước, xa rời tướng xa rời nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Thí như người chiêm bao lấy hương gỗ chiên đàn hoặc hương lá đa ma la và các thứ hương khác để xoa thân ḿnh. Thức dậy, người ấy nhớ các thứ hương được xoa trong mộng vừa rồi. Ư Đại Vương thế nào, sự thấy trong mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có hương huống là xoa thân. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ ngửi hương thơm bèn mến thích rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi thân ngữ ư. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất, khi mất, nghiệp ấy chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đă làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Như chiêm bao thức dậy nhớ hương thơm được ngửi trong mộng.

Nầy Đại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu sanh khởi, hoặc sanh địa ngục v. v...đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Lúc hậu thức diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ v́ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.

Tất cả pháp Không là Không-giải-thoát-môn. Không ấy Không-Có-Tướng-Không là Vô-tướng-giải-thoát-môn. Đă không tướng nên Không-Nguyện-Cầu là Vô-nguyện-giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với Không. Niết Bàn là con đường trước, xa rời tướng, xa rời nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người chiêm bao thấy cổ ḿnh đeo những tử thi: rắn, chó, thây người v. v...Thức dậy, người ấy ghi nhớ cảnh mộng rồi sợ sệt. Ư Đại Vương thế nào, cảnh mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy chấp lấy tử thi được thấy trong mộng có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng tử thi c̣n không có, huống là cột nơi cổ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy thúi xấu th́ chấp trước ghét bỏ mà tạo mười nghiệp sân ghét nơi thân khẩu ư. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh ḷng ghét bỏ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra. Như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.

Nầy Đại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v. v...đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp được làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh của hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo, chỉ v́ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều Không-tịch. Tất cả pháp Không là không giải thoát môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường đến Niết Bàn, xa ĺa tướng xa ĺa nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người chiêm bao thấy tỷ căn hoại. Thức dậy, người ấy ghi nhớ mũi ḿnh hư. Ư Đại Vương như thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy chấp cảnh mộng là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có tỷ căn huống là hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy tỷ căn hoại th́ chấp trước lo sợ mà tạo mười nghiệp chấp trước lo sợ nơi thân khẩu ư.

Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc đă làm hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh ḷng sợ sệt, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra. Như thức dậy nhớ việc trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v. v...đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nầy từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă tạo và thọ quả báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Lúc hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu tới, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều Không-tịch. Tất cả pháp Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường trước là Niết Bàn, xa ĺa tướng, xa ĺa nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy ḿnh đói khát được cơm canh ngon tha hồ ăn uống. Thức dậy, người ấy ghi nhớ cơm canh ngon được ăn trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thi&ệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng pphải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có cơm canh huống lại có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy các thức ăn th́ chấp trước tham ưa say nhiễm rồi tạo nghiệp tham nhiễm mười thứ nơi thân khẩu ư. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, nhẫn đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh ḷng tham chấp, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Nầy Đại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, thức sanh trong sáu đạo. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Lúc hậu thức ấy diệt gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh th́ gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều Không-tịch. Tất-cả-pháp-Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với Không trên đường trước là Niết Bàn, xa ĺa tướng xa ĺa nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy ḿnh quá đói gặp được dưa đắng, trái câu xa, trái nhâm bà v. v...liền lấy ăn. Thức dậy người ấy ghi nhớ trong mộng ăn những trái đắng. Ư Đại Vương thế nào, trong mộng người ấy có thiệt ăn trái đắng chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vươnng! Người ấy cho sự mộng là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng c̣n không có trái đắng huống là có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mộng thấy bị đói khổ họ liền chấp trước mà tạo mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu và ư. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi, trong tâm sanh vọng tưởng, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi thác sanh vào sáu loài. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều Không-tịch. Tất-cả-pháp-Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi với Không trên đường trước Niết Bàn, xa ĺa tướng, xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như gnười mộng thấy lưỡi ḿnh hư hoại. Thức dậy người ấy ghi nhớ sự trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vươ;ng! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải là trí. Tại sao? V́ trong mộng lưỡi c̣n chẳng có huống là hư hoại. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! C&ũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy thiệt căn hư hoại th́ chấp trước sanh ḷng chẳng ưa mà khởi mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu ư. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt, chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi ḷng lo sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu thú. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm từ trước và thọ báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch, Tất cả pháp Không là không giải thoát môn, không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không trên đường trước Niết Bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ đều phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy ôm ấp nữ nhơn đẹp nhất nước. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự chạm xúc êm dịu trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có gái đẹp, huống là chạm xúc êm dịu. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy sắc khả ư th́ chấp trước mà khởi ái dục sanh ḷng nhiễm trước rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi thân khẩu và ư.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp làm từ trước hiện trong tâm tưởng, người ấy thấy rồi sanh ḷng ưa vui, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai nghiệp ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu loài.

Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là sanh số.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đếu đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.

Tất-cả-pháp-Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với Không trên đường trước Niết Bàn, xa ĺa tướng xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng tự lấy đồng lá nóng quấn thân ḿnh. Thức dậy, người ấy ghi nhớ trong mộng quấn đồng lá nóng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng c̣n không có đồng lá huống là có quấn thân ḿnh. Người ấy tự luống nhọc nhằn đều không có thiệt

Nầy Đại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy sự kinh sợ th́ chấp trước nên sợ hăi rồi tạo mười nghiệp sợ hăi thân khẩu và ư. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu, thức diệt, người ấy thấy việc đă làm hiện trong tâm tưởng liền sợ hăi, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, v́ hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Nầy Đại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả các pháp đều Không-tịch. Tất-cả-pháp-Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với Không trên đường trước Niết Bàn, xa ĺa tướng xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp tánh, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy thân căn hư hoại chẳng cảm giác khi xúc chạm. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự hư hoại trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có thân căn huống là có hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.

Nầy Đại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, tự thấy thân căn hư hoại th́ chấp trước nên sợ hăi rồi tạo mười nghiệp sợ hăi nơi thân khẩu và ư . Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, măi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đă làm hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh ḷng sợ hăi, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm sơ khởi vào trong sáu thú.

Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đậu.

Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp khôn. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nầy Đại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Tất cả pháp đều không tịch. Tất-cả-pháp-Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với Không trên đường trước Niết Bàn, xa ĺa tướng xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy nhà ảo thuật hóa ra ngũ dục, tự thấy thân ḿnh hưởng thọ ngũ dục. Thức dậy người ấy ghi nhớ cảnh ngũ dục trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng được thấy là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí . Tại sao? V́ trong mộng nhà ảo thuật c̣n cứu cánh không có huống là ngũ dục và hưởng thọ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy ảo sư thuật ra ngũ dục th́ chấp trước mà ái trọng rồi nhiễm trước, do đó họ tạo mười nghiệp ái nhiễm nơi thân khẩu và ư.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, măi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đă làm hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh ḷng ái nhiễm. Nghiệp trước đă hết, nghiệp khác sanh ra, như mộng thức nhớ cảnh sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu loài. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt th́ gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh th́ gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều Không-tịch. Tất-cả-pháp-Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đầy đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không trên đường trước Niết Bàn, xa ĺa tướng xa ĺa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy nước lớn cuốn trôi thân ḿnh, vợ con quyến thuộc thấy vậy buồn rầu vô lượng. Thức dậy, người ấy nhớ sự nước trôi và buồn rầu trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh không có nước, huống là cuốn trôi và buồn rầu. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy nước cuốn trôi th́ chấp trước mà lo buồn rồi tạo mười nghiệp lo buồn nơi thân khẩu và ư.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, măi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh ḷng buồn sợ, nghiệp trước đă hết, nghiệp sau hiện ra, như người thức dậy nhớ sự cảnh trong mộng .

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu thú. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt th́ gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh th́ gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Tác nghiệp và thọ quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại vương! Phải biết tất cả pháp đều Không-tịch. Tất-cả-pháp-không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy tất cả pháp đều là đủ ba môn giải thoát, cùng đi với Không trên đường trước Niết Bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Nầy Đại Vương! Như người mộng thấy ḿnh uống rượu say không c̣n hay biết, chẳng biết phải trái thiện ác tội phước tôn ty ưu liệt. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự việc trong mộng. Ư Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ccó thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Người ấy cho sự mộng là thiệt th́ có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ch𓋟ng phải trí. Tại sao? V́ trong mộng cứu cánh c̣n không có rượu huống là có uống say mê loạn chẳng biết tội phước tôn ti thiện ác phải trái hơn kém. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Nầy Đại Vương! &nnbsp;Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy uống rượu mê loạn họ sanh chấp trước mà nhiễm ái rồi tạo mười nghiệp nhiễm ái nơi thân khẩu và ư. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, măi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đă làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh ḷng ái trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đă diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Nầy Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đă làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt th́ gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh th́ gọi là sanh số.

Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao? V́ tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Nghiệp được tạo tác và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.

Nầy Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp Không là Không giải-thoát-môn. Không ấy Không-có-tướng-Không là Vô-tướng giải-thoát-môn. Đă vô tướng nên cũng không nguyện cầu là Vô-nguyện giải-thoát-môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với Không trên đường trước Niết Bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Nầy Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ đều phải biết như vậy".
PHẨM LỤC GIỚI SAI BIỆT
THỨ HAI MƯƠI LĂM
HẾT
Tiếp Tục
1626 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương

 
Trang Mục Lục      Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0