Như vậy tôi nghe, một lúc Đức Bạc Già Phạm an cư tại thành Thất La Phiệt, quá ba tháng tự tứ xong, làm y phục rồi, Ngài cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người du hóa các nước.
Đức Bạc Già Phạm ấy thành tựu danh xưng quảng đại vi diệu. Ngài xuất hiện thế gian được hàng Trời, Người ca tụng công đức là Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Viên Măn, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật.
Đức Bạc Già Phạm ấy ở sâu nơi tự chứng đầy đủ thần thông oai đức che chói tất cả thế gian chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương, A Tu La v. v...Ngài thường v́ thế gian mà nói pháp vi diệu. Lời khai thị của Ngài trước sau giữa đều lành, văn nghĩa khéo hay thuần nhứt, viên măn phạm hạnh thanh bạch.
Bấy giờ bốn bộ chúng, hàng Quốc Vương, các quan, các nhà ngoại giao đạo, Sa Môn, Bà La môn và các Trưởng Giả cùng Thiên, Long, Bát, Bộ v. v... đều mang vô lượng thứ y phục, thực phẩm, mền nệm, thuốc men các thứ cúng dường đẹp tốt hơn hết dâng lên Đức Như Lai.
Đức Thế Tôn được đại chúng vây quanh cúng dường cung kính tôn trọng ca ngợi du hành lần lần đến nước Ma Kiệt Đà thành Vương Xá rồi ở lại núi Linh Thứu.
Trong thành Vương Xá có Trưởng Giả tên là Hiền Thủ. Trưởng Giả ấy đă từng thân cận chư Phật quá khứ trồng các căn lành phước đức rất lớn, ḍng lớn, giàu lớn, sản nghiệp của báu đều đầy đủ.
Trưởng Giả Hiền Thủ nghe đại Sa Môn ḍng họ Thích chứng Vô Thượng Bồ Đề cùng đại chúng đến tại nước nầy.
Đức Phật Thế Tôn ấy xuất hiện thế gian có danh xưng rất lớn, đủ mười hiệu, thành tựu thần thông trí huệ nói pháp vi diệu, nhẫn đến viên măn phạm hạnh thanh bạch.
Trưởng Giả Hiền Thủ nghĩ rằng : nay tôi nên đến núi Linh Thứu để được phụng kiến Đức Như Lai. Nếu tôi được thấy Đức Phật tất sẽ được lợi lành.
Suy nghĩ xong, Trưởng Giả Hiền Thủ cùng năm trăm Trưởng Giả ra khỏi thành Vương Xá hướng đến núi Linh Thứu.
Buổi sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn mặc y tăng già lê mang bát cùng chúng Tỳ Kheo thị tùng rời núi Linh Thứu hướng đến thành Vương Xá. Đức Phật đi trước đại chúng. Oai nghi của Ngài nghiêm chỉnh bước đi an tường . V́ giáo hóa chúng sanh mà Ngài hiện thân khất thực.
Lúc Đức Phật sắp vào thành, Ngài dừng lại giữa đường, Trưởng Giả Hiền Thủ và năm trăm Trưởng Giả từ xa trông thấy Đức Phật oai nghiêm siêu việt, thân màu hoàng kim mà ai cũng thích nh́n, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, các căn tịch định, thần thái đạm bạc, như đại long tượng, nhiếp hộ các căn thanh tịnh không náo loạn như ao suối đứng trong, chưn Ngài bước trên hoa sen hồng trăm ngàn ức cánh do bảy báu hiệp thành, được vô số Thiên, Nhơn, Dạ Xoa cúng dường, mưa hoa trời lớn rải trên Đức Như Lai. Hoa trời ấy như ḍng thác đổ tràn đầy mặt đất.
Chư Trưởng Giả khen chưa từng có, dùng ḷng thanh tịnh đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua một bên mà bạch rằng : "Bạch Đức Thế Tôn! Thiệt chưa từng có. Thần lực của Đức Như Lai chói che cả chư Tiên, chư Tiên cùng Ma Vương, Phạm Vương. Oai đức của Như Lai đủ cả danh xưng to lớn. Vầng viên quang màu đẹp lấp cả đại chúng. Thân tướng Như Lai dường ṭa núi vàng lớn, dung mạo đoan nghiêm không ai sánh bằng. Thế Tôn thành tựu tất cả những pháp hi kỳ. Tôi suy gẫm Đức Thế Tôn oai Đức Như vậy quan sát những tướng ǵ mà vứt bỏ gia nghiệp để chứng ngộ đại Bồ đề".
Liền đó Trưởng Giả Hiền Thủ ở trước Đức Phật nói kệ rằng:
" Xưa tôi từng nghe Đức Thế Tôn
Cát tường sắc đẹp danh xưng lớn
Nay thấy oai quang hơn chỗ nghe
Như tượng chơn kim đủ mọi đức
Thân sắc Như Lai dường núi vàng
Cao rộng nghiêm tịnh nh́n không chán
Chúng Tỳ Kheo oai đức trang nghiêm
Dường như trăng tṛn giữa sao trời
Đảnh tướng Như Lai không ai thấy
Cao bày rực rỡ hơn Tu Di
Búi tóc tṛn đầy tuần tự xoắn
Đảnh tướng bằng nghiêm như lọng trời
Tóc biếc mềm mướt xoay bên hữu
Như ngọc thanh bửu của Thiên Đế
Sạch chói hơn lông cổ chim công
Nay tôi chiêm ngưỡng không biết chán
Diện mạo đoan nghiêm trán bằng phẳng
Mày sáng sạch như vành cung trời
Lông trắng chặng mày chói rực rỡ
Ánh sáng chiếu suốt như vầng trăng
Mắt trong diệu hiền rất đẹp lạ
Người thấy đều sanh ḷng mến thích
Nay tôi chiêm ngưỡng chẳng tạm rời
Đảnh lễ mắt Phật thế gian nương
Sống mũi cao bằng dài và thẳng
Lần rộng tṛn trịa như thỏi vàng
Môi đỏ bóng sáng rất thanh tịnh
Như trái tần bà ngọc ma ni
Răng đẹp sạch trắng thêm sáng bóng
Đồng màu sữa và ngó sen non
Răng kín bằng phẳng rất sạch sáng
Do điều thuận đại định cảm nên
Răng trong răng ngoài chưn sâu chắc
Trên dưới khít khao đều tề chỉnh
Răng nanh sáng trắng hơn tất cả
Như nhạn vương ở giữa đàn nhạn
Tướng lưỡi của Phật rất rộng dài
Che mặt mỏng sạch như hoa sen
Như màu đồng đỏ châu ma ni
Lóng lánh như gương mặt trời mọc
Vành tai của Phật rất đoan nghiêm
Cơi trời cơi người chẳng nghe thấy
Ḍng giống Cồ Đàm hàm toan nghê
Vô úy dường như sư tử chúa
Tôi ngắm tướng yết hầu của Phật
Hay nhỉ chất cam lộ thế gian
Trong sạch sáng suốt không vết nhơ
Đủ đại lực chẳng nghĩ bàn
Trước cổ ngang rộng dài và thẳng
Ở giữa đều không có lằn nhăn
Tôn quư trong người trời trong trời
Thường ăn chất vị đệ nhứt vị
Đầu vai tṛn trịa đều đầy bằng
Ngực hông hùng mạnh oai dung thạnh
Tướng của Thế Tôn đời chưa nghe
Như trên núi cao mặt trời sáng
Tay chưn hai vai và sau gáy
Bảy chỗ sáng sạch đều đầy bằng
Cánh tay tṛn dài như ṿi voi
Bàn tay tḥng xuống rờ đụng gối
Thân ḿnh rộng dầy như thú vương
Viên măn như cây Ni-câu-luật
Sức Na-la-diên hiệp thành thân
Đủ trọn đại lực và nhẫn lực
Lông trên thân Phật đều hướng lên
Cứ mỗi lỗ lông mọc một lông
Bụi khói chẳng đóng như hoa sen
Xoắn về bên hữu mà mịn nhuyễn
Tôi xưa nghe truyền tướng ẩn kín
Âm tạng sâu như chúa ngựa trời
Vế đùi tṛn trịa lần lần thon
Tướng ấy dường như chúa nai trời
Chưn dầy nổi vun gót tṛn dài
Bàn tay màn mỏng như nhạn chúa
Bằng đầy vót dài hai mươi ngón
Móng màu xích đồng như hoa sen
Hai chưn tướng vành xe ngàn căm
Sáng sạch vi diệu đủ trang nghiêm
Như Lai dạo bước nơi thế gian
Hai mắt cá chưn chẳng chạm nhau
Cách đất bốn ngón đi trên không
Những bông sen đỏ theo chưn hiện
Đoái nh́n an tường bước tượng vương
Tiến lên đoan túc như Thiên Vương
Đại Thánh oai nghiêm vô sở úy
Giữa chúng vượt hơn sư tử vương
Sắc đẹp chói lấp Tỳ Sa Môn
Oai quang hơn trăm ngàn mặt trời
Thiên Vương Phạm Vương c̣n không bằng
Có ai hơn được Đức Như Lai
Đi đứng thuyết pháp độ chúng sanh
Thiên Tiên Long Thần đều cung kính
Hoặc trổi nhạc trời rải hoa trời
Lăng xăng ngập tràn đầy hư không
Nay thấy Thế Tôn đại thần thông
Nên tôi trộm sanh ḷng nghi hoặc
Trước kia do thấy công đức ǵ
Mà Phật xuất gia chứng Vô Thượng ?".
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trưởng Giả Hiền Thủ : " Nầy Trưởng Giả! Ta xem thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mười sự khổ bức bách :
Một là sanh khổ.
Hai là lăo khổ.
Ba là bịnh khổ.
Bốn là tử khổ.
Năm là sầu khổ.
Sáu là oán hận.
Bảy là khổ thọ.
Tám là ưu thọ.
Chín là thống năo.
Mười là khổ lớn sanh tử lưu chuyển.
Nầy Trưởng Giả! Ta thấy mười sự khổ ấy bức bách chúng sanh. Ta v́ được Vô Thượng Bồ Đề để xuất ly sự khổ ấy, nên ta dùng ḷng tịnh tín bỏ cung ḍng Thích thẳng đến đạo Vô Thượng".
Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
" Ta thấy các phàm phu
Bị nhốt ngục lưu chuyển
Thường bị sanh lăo bịnh
Các khổ làm bức bách
Sầu lo và oán hận
Những chết chóc kéo dắt
V́ trừ khổ lao ngục
Nên ta thích xuất ly.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mười thứ năo hại ghét ganh lẫn nhau. Những ǵ là mười?
Một là đă từng ở nơi thân ḿnh làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Hai là hiện nay ở nơi thân ḿnh làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Ba là sẽ ở nơi thân ḿnh làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Bốn là đă từng ở nơi sở ái của ḿnh làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Năm là hiện nay ở nơi sở ái của ḿnh làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Sáu là sẽ ở nơi sở ái của ḿnh làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Bảy là đă từng ở nơi ḿnh chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Tám là hiện nay ở nơi ḿnh chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Chín là sẽ ở nơi ḿnh chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Mười là ở những nơi lỗi lầm mà làm điều chẳng lợi ích nên sanh ḷng năo hại.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy mười điều năo hại ấy làm năo hại tất cả chúng sanh thế gian. Ta v́ được Vô Thượng Bồ Đề để xuất ly sự năo hại ấy nên dùng ḷng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ rằng :
"Chúng sanh ganh ghét nhau
Đều do mười năo sanh
Nơi ḿnh và ḿnh ưa
Ba đời đều năo hại
Hoặc nơi ḿnh chẳng ưa
Lại làm những lợi ích
Oán ghét do đây sanh
Ba đời đều năo hại
Thứ mười nơi lỗi làm
Sanh trưởng khổ oán ghét
Ta thấy những lỗi ấy
Chán sợ nên xuất gia.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian vào trong mười thứ rừng rậm ác kiến. Do chấp dị kiến mà chẳng tự ra khỏi.
Những ǵ là mười?
Một là rừng rậm ác kiến về ngă kiến.
Hai là rừng rậm ác kiến về hữu t́nh kiến.
Ba là rừng rậm ác kiến về thọ mạng kiến.
Bốn là rừng rậm ác kiến về sát thủ thú kiến
Năm là rừng rậm ác kiến về đoạn kiến
Sáu là rừng rậm ác kiến về thường kiến.
Bảy là rừng rậm ác kiến về vô tác kiến.
Tám là rừng rậm ác kiến về vô nhơn kiến.
Chín là rừng rậm ác kiến về bất b́nh đẳng nhơn kiến
Mười là rừng rậm ác kiến về tà kiến.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh vào trong mười thứ rừng rậm ác kiến không tự ra được. Ta v́ được Vô Thượng Bồ Đề để dứt hẳn những ác kiến ấy nên dùng ḷng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiă ấy mà nói kệ rằng :
"Tất cả kẻ phàm phu
Vào rừng rậm ác kiến
Ngă kiến, hựu t́nh kiến
Và cùng thọ mạng kiến
Đoạn kiến với thường kiến
Chấp vô tác kiến thảy
V́ an lập chánh kiến
Nên ta đi xuất gia.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian từ vô số kiếp gây tạo đủ trăm ngàn na do tha câu chi tội lỗi, thường bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng. Những ǵ là mười?
Một là tên độc ái luyến
Hai là tên độc vô minh.
Ba là tên độc dục nhiễm.
Bốn là tên độc tham lam.
Năm là tên độc lỗi lầm.
Sáu là tên độc ngu si.
Bảy là tên độc kiêu mạn.
Tám là tên độc kiến chấp.
Chín là tên độc có.
Mười là tên độc không có.
Nầy Trưởng Giả ! V́ ta thấy chúng sanh bị mười thứ tên độc ấy bắn trúng nên ta cầu Vô Thượng Bồ Đề để dứt hẳn những tên độc ấy. Do đó mà ta dùng ḷng tịnh tín rời bỏ cung ḍng Thích hướng đến đạo Vô Thượng.
Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
" Quá câu chi đại kiếp
Chúng sanh bị tên ái
Tên vô minh làm mù
Từ tối vào trong tối
Tên dục thường bắn trúng
Nhiễm trước gọi tên tham
Tên lỗi lầm muộn loạn
Mang mũi tên ngu si
Cống cao phát tên mạn
Trái căi sanh kiến chấp
Do tên có không có
Sa vào có và không
Các phàm phu ngu si
Mũi nhọn do miệng họ
Cùng nhau sanh tranh luận
Đây thiệt đây chẳng thiệt
V́ nhổ những tên độc
Như Lai hiện thế gian
Cứu người trúng tên độc
Xuất gia thành thánh đạo.
Lại nầy Trưởng Giả! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian do mười thứ ái luyến kiến lập căn bổn. Những ǵ là mười? Đó là:
1. Do ái nên cầu,
2. Do cầu nên được,
3. Do được nên có ngă sở,
4. Do ngă sở nên nắm chặt,
5. Do nắm chặt nên tham dục,
6. Do tham dục nên say đắm,
7. Do say đắm nên bỏn sẻn,
8. Do bỏn sẻn nên thâu góp,
9. Do thâu góp nên ǵn giữ,
10. Do ǵn giữ nên cầm khí giới căi kiện chê bai sanh ra nhiều sự khổ. Lại do nơi đây mà phát ra lời nói ly biệt nuôi lớn những sự ác bất thiện.
Nầy Trưởng Giả! Ta thấy chúng sanh do mười thứ ái nhiễm kiến lập căn bổn nên cầu Vô Thượng Bồ Đề để được pháp không căn bổn không sở y. Do đó ta dùng ḷng tin thanh tịnh rời bỏ cung ḍng Thích hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
"Ái nhiệm nuốt chúng sanh
Theo t́m những dục lạc
Được lợi sanh ngă sở
Do đây mà nắm chặt
Tôi phải được phải làm
Dục tham càng thêm lớn
Những say đắm bỏn sẻn
Nối nhau mà phát sanh
Quá tham lam bỏn sẻn
Nên chứa thâu càng nhiều
Do chứa nên giữ ǵn
Sanh nhiều lỗi không hở
Người ngu v́ giữ ǵn
Khí giới tàn hại nhau
Gieo những nghiệp bất thiện
Do đây sanh quả khổ
Thấy nhơn duyên ái rồi
Các khổ chẳng c̣n sanh
Trí giác không căn trụ
Hơn hết trong trí giác.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian do mười thứ tánh ác tà mà kiến lập tà định. Những ǵ là mười?
Một là tà kiến.
Hai là tà tư duy.
Ba là tà ngữ.
Bốn là tà nghiệp.
Năm là tà mạng.
Sáu là tà tinh tiến.
Bảy là tà niệm.
Tám là tà định.
Chín là tà giải thoát .
Mười là tà giải thoát tri kiến.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh do mười thứ tà tánh ấy kiến lập tà định, ta muốn chứng Vô Thượng Bồ Đề để xuất ly các tà tánh như vậy nên dùng ḷng tin thanh tịnh rời bỏ cung ḍng Thích mà hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Chúng sanh hoài tà kiến
Tà tư duy cảnh giới
Tuyên nói những tà ngữ
Và làm những tà nghiệp
Tà mạng, tà tinh tiến
Tà niệm và tà định
Thành tựu tà giải thoát
Và đến tà tri kiến
Tà tánh quyết định tụ
Chỗ nương của kẻ ngu
V́ khiến trụ chánh kiến
Hướng đến đạo Vô Thượng.
Lại nầy Trưởng Giả! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian do mười thứ nghiệp đạo bất thiện mà hay kiến lập ở nơi tà đạo phần nhiều phải đọa vào ác thú. Những ǵ là mười?
Một là giết chết .
Hai là chẳng cho mà lấy.
Ba là tà dâm.
Bốn là vọng ngữ .
Năm là lời ly gián.
Sáu là thô ngữ .
Bảy là ỷ ngữ.
Tám là tham lam.
Chín là giận thù.
Mười là tà kiến.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh do mười thứ nghiệp bất thiện ấy nương theo tà kiến mà xu hướng, phần đông phải sa vào ác đạo. Ta v́ muốn chứng Vô Thượng Bồ Đề siêu xuất tất cả các tà đạo nên dùng ḷng tịnh tín rời bỏ cung ḍng Thích hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Nào hại mạng chúng sanh
Cướp trộm của cải người
Làm hạnh tà dâm dục
Mau đọa vào địa ngục
Thô ngữ, ly gián ngữ
Vọng ngữ trái tịch tịnh
Những phàm phu ỷ ngữ
Bị ngu si ràng buộc
Tham lam tài sản người
Thường sanh ḷng giận thù
Khởi các thứ tà kiến
Người ấy đến ác đạo
Ba nghiệp do thân khởi
Bốn nghiệp từ miệng sanh
Ư hay thành ba nghiệp
Nên gọi là ác hạnh
Làm những ác nghiệp rồi
Dắt đến trong ác đạo
Nay ta hiện thế gian
Tế độ khiến ra khỏi.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh thế gian do mười pháp nhiễm ô mà ở tại phiền năo, sa vào trong phiền năo. Những ǵ là mười?
Một là xan cấu nhiễm ô.
Hai là ác giới cấu nhiễm ô.
Ba là sân cấu nhiễm ô.
Bốn là giải đăi cấu nhiễm ô.
Năm là tán loạn cấu nhiễm ô.
Sáu là ác huệ cấu nhiễm ô.
Bảy là bất tuân chánh giáo cấu nhiễm ô.
Tám là tà nghi cấu nhiễm ô.
Chín là bất tín giải cấu nhiễm ô.
Mười là bất cung kính cấu nhiễm ô.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh bị mười thứ cấu nhiễm ấy làm nhiễm ô, ta v́ chứng Vô Thượng Bồ Đề được pháp vô nhiễm Vô Thượng nên dùng ḷng tin thanh tịnh rời bỏ cung ḍng Thích hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Phần đông các chúng sanh
Bị mười thứ ô nhiễm
Thích hữu vi phiền năo
Chẳng hề biết chán ĺa
Xan cấu làm ô nhiễm
Tất cả phàm phu dại
Phạm giới chẳng tịch tịnh
Chẳng tập tu chánh định
Sân cấu trái nhẫn nhục
Ḷng họ chẳng chuyên trụ
Người tà trí ngu độn
Chẳng tuân theo lời dạy
Của cha mẹ sư trưởng
Chúng sanh bị lưới nghi
Chẳng cầu trí chiếu thế
Chê bai pháp thâm diệu
Của Đức Phật dạy truyền
Mặc lấy áo vô minh
Khinh tiện nơi thánh uẩn
Thấy được ô nhiễm ấy
Có ai thích hữu vi
Phải siêng cầu tịch diệt
Vô vi không ô nhiễm.
Lại nầy Trưởng Giả ! Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mười thứ triền phược nó trói buộc. Những ǵ là mười?
Một là lưới xan tật trói buộc.
Hai là màn vô minh che ḷa.
Ba là phiền năo làm mê say sa vào hố ngu si.
Bốn là ḍng nước lũ ái dục đẩy trôi ch́m đắm.
Năm là bị tên độc tà kiến bắn trúng.
Sáu là khói đặc giận thù xông lấp.
Bảy là ngọn lửa tham dục đốt cháy.
Tám là thuốc độc lỗi lầm làm mê loạn.
Chín là những gai độc ngũ cái làm trở ngại.
Mười là thường ở trong ḍng nước sanh tử trong đồng hoang đói khát, lười mỏi đối với chánh cần.
Nầy Trưởng Giả ! Ta thấy chúng sanh bị mười thứ triền phược ấy trói buộc nên ta cầu Vô Thượng Bồ Đề để chứng pháp không triền phược. Ta dùng ḷng tin thanh tịnh rời bỏ cung ḍng Thích hướng đến đạo Vô Thượng".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Tuổi già nuốt trẻ mạnh
Tuổi già mất tươi đẹp
Tuổi già tổn niệm huệ
Trọn bị thần chết nuốt
Bịnh xô ngă thế lực
Cướp đoạt tâm dũng mănh
Làm hư cả căn thân
Yếu đuối không nơi dựa
Chết như quỷ La Sát
Độc hại rất đáng sợ
Thường ở măi thế gian
Uống cạn mạng chúng sanh
Ta đă chán thế gian
Già bịnh chết bức bách
Nên cầu pháp xuất gia
An lành không già chết
Đời bị ba thứ lửa
Ta thấy không ai cứu
Rưới mưa pháp cam lộ
Tắt mất ba lửa độc
Thấy những kẻ lạc đường
Mù loà sanh manh thảy
V́ muốn làm mắt sáng
Dẫn đường nên xuất gia
Chúng sanh nuôi ḷng nghi
Uẩn cái nó che lấp
V́ trừ hối năo ấy
Nên xuất gia thuyết pháp
Kẻ ngu chống trái nhau
Ŕnh rập hại lẫn nhau
V́ hoà giải oán ghét
Giúp đời nên xuất gia
Với cha mẹ sư trưởng
Chống khinh không cung kính
V́ dẹp tràng kiêu mạn
Nên ta đi xuất gia
Thấy tham lam hại đời
Do tiền của hại nhau
V́ được bảy thánh tài
Dứt trừ những pháp tham
Hoặc đến nỗi hại nhau
Lợi ḿnh trọn vô ích
Thấy vậy ta xả thân
Cầu rời ngục tam giới
Xưa chưa biết tam giới
Sự lợi ích chơn thiệt
V́ mở sự lợi thiệt
Nên ta đi xuất gia
Thấy người đến địa ngục
Nghiệp nhơn ác quá nhiều
Chịu vô biên khổ năo
V́ cứu mà xuất gia
Thấy các loài muôn thú
Thường giết hại lẫn nhau
Muốn làm chỗ nó nương
Thương chúng mà xuất gia
Thấy các loài ngạ quỷ
Rất khổ v́ đói khát
V́ chứng đại Bồ đề
Thí cam lộ bất tử
Loài người khổ v́ cầu
Chư Thiên khổ v́ chết
Thấy khổ khắp ba cơi
V́ cứu mà xuất gia
Ta thấy người tham dục
Rời xa ḷng tàm quư
Hiếp bức cả thân thuộc
Hoang dâm hơn heo chó
Lại thấy những kẻ ngu
Bị gái đẹp nuốt chửng
Phóng dật gây tội ác
V́ bỏ nên xuất gia
Thấy chúng sanh kiếp trược
Ma khiến tội ác sai
Ta muốn điều phục họ
Xuất gia thánh chánh giác
Tại gia là gốc tội
Xuất gia đến Bồ đề
Nên bỏ cả quốc thành
Để hết hẳn sanh tử ».
Năm trăm Trưởng Giả nghe lời Đức Phật dạy chưa từng có, mới biết Đức Như Lai là bực Chơn Giác. Các Trưởng Giả liền ở trước Đức Phật khác miệng đồng lời nói kệ rằng :
« Chúng tôi kinh sợ già chết bức
Xin Phật tuyên dạy hết khổ ấy
Phật khỏi tam giới đến thanh tịnh
Tánh thanh tịnh rời hẳn tam giới
Xin cứu chúng sanh thoát tam giới
Và người tại gia bị nhốt giam
Thế Tôn ly nhiễm giải thoát nhứt
Rời xa trần cấu ḷng thanh tịnh
Điều ngự lớn trong pháp điều ngự
Xin mở cửa cam lộ vi diệu
Đủ tướng diệu sắc đại trượng phu
Trời người thế gian không ai sánh
Đấng tối thắng không ai sánh bằng
Xin nói pháp mầu cứu muôn loại
Dứt hẳn ba độc hết tội lỗi
Huệ nhăn sạch trong tiêu màn ḷa
Sạch bụi ĺa tối mở lưới si
Xin Đức Thế Tôn tuyên diệu pháp
Chúng sanh quá khổ không chỗ dựa
Đắm ao tam giới không ai cứu
Xin Phật khởi ḷng từ rộng cứu
Mau vớt lên bờ cao an ổn
Sông to kiêu mạn nước xoáy si
Bịnh tật kiện tụng sóng gào to
Chúng sanh trôi ch́m không ai vớt
Xin Phật từ bi cứu thoát hiểm
Ngàn ức mặt trời chói núi vàng
Thân phật chói sáng hơn sáng ấy
Xin dùng phạm âm thanh thắng diệu
Tuyên bố pháp đoan nghiêm tối thượng
Tự tánh các pháp vốn thanh tịnh
Thể tướng rỗng suốt như minh châu
Không có tác giả không thọ giả
Biến chánh giác chẳng từ ngoài được
Tự nhiên đầy đủ lực vô úy
Hiển hiện vô biên hạnh tịnh diệu
Trí giải vô biên như hư không
Xin đấng Pháp Vương tuyên pháp diệu".
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng năm trăm Trưởng Giả nầy căn lành đă thành thục có thể lănh thọ diệu pháp. Nay ta nên nói pháp cho họ phát tâm xuất gia dứt trừ phiền năo được trí huệ vô lậu.
Nghĩ xong, Đức Phật liền bay lên ngồi kiết già trên hư không.
Các Trưởng Giả thấy Phật hiện thần biến khen chưa từng có, càng kính trọng tín ngưỡng Phật hơn.
Đức Thế Tôn bảo các Trưởng Giả rằng : " Các ông lắng nghe ! Trong đời có mười sự khổ bức bách. Đó là sanh khổ, lăo khổ, bịnh khổ, tử khổ, sầu khổ, oán khổ, khổ thọ, ưu thọ, và thống năo sanh tử. Mười sự khổ bức bách như vậy làm khổ chúng sanh.
Nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười thứ năo hại. Đó là với thân của ḿnh từng làm sự chẳng lợi ích, nay làm sự chẳng lợi ích, sẽ làm sự chẳng lợi ích, sẽ làm sự chẳng lợi ích; với chỗ ta từng yêu thích làm sự chẳng lợi ích, với chỗ ta hiện nay yêu thích làm sự chẳng lợi ích, với chỗ ta sẽ yêu thích làm sự chẳng lợi ích; với chỗ ta từng chẳng ưa làm sự lợi ích, với chỗ ta hiện chẳng ưa làm sự lợi ích, với chỗ ta sẽ chẳng ưa làm sự lợi ích, và ở nơi tất cả lỗi chẳng lợi ích sanh ḷng năo hại. Mười sự năo hại ấy các ông có muốn giải thoát chăng ?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười thứ rừng rậm dị kiến ác kiến. Đó là ngă kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, sát thủ thú kiến, đoạn kiến, thường kiến, vô tác dụng kiến, vô nhơn kiến, bất b́nh đẳng kiến và tà kiến. Mười rừng rậm ác kiến ấy các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng. Đó là ái độc, vô minh độc, dục độc, tham độc, quá thất độc, ngu si độc, mạn độc, kiến độc, hữu độc và vô độc. Mười thứ tên độc ấy các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười thứ pháp ái căn bổn . Đó là do v́ ái nên t́m cầu, do v́ cầu nên được, do v́ được nên có ngă sở hữu, do v́ sở hữu nên nắm chặt, do v́ nắm chặt nên tham dục, do v́ tham dục nên say đắm, do v́ say đắm nên bỏn sẻn, do v́ bỏn sẻn nên góp chứa, do v́ góp chứa nên ǵn giữ, do v́ ǵn giữ nên dùng những khí giới tranh chấp kiện tụng chê bai hủy báng chia rẽ, những pháp ác bất thiện khổ năo nhơn đây mà phát khởi. Mười thứ pháp ái căn bổn như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười thứ tà tánh. Đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tiến, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà giải thoát tri kiến. Mười thứ tà tánh như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười nghiệp đạo bất thiện. Đó là hại mạng, chẳng cho mà lấy, tà dâm, vọng ngữ, ly gián ngữ, thô ác ngữ, ỷ ngữ, tham dục, giận thù và tà kiến. Mười nghiệp đạo bất thiện như vậy nay các ông có muốn giải thoát không?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười thứ pháp cấu uế nhiễm ô. Đó là bỏn sẻn cấu uế, phá giới cấu uế, giận hờn cấu uế, giải đăi cấu uế, tán loạn cấu uế, ác kiến cấu uế, chẳng tuân lời dạy cấu uế, nghi hoặc cấu uế, bất tín cấu uế và chẳng cung kính cấu uế. Mười thứ cấu uế nhiễm ô như vậy nay các ông có muốn giải thoát không?
Lại nầy các Trưởng Giả ! Trong đời có mười sự sanh tử lưu chuyển đại bố úy. Đó là trói buộc trong lưới bỏn sẻn ganh ghét, che ḷa trong màn vô minh, sa vào hố sâu ngu si, trôi ch́m ḍng nước lũ ái dục, trúng tên tà kiến, khói phẫn hận xông lấp, lửa mạnh tham dục đốt cháy, độc dược lỗi lầm làm mê, gai độc ngũ cái ngăn trở và chạy quanh trong đồng hoang đói kém. Mười sự sanh tử lưu chuyển đại bố úy như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng?".
Năm trăm Trưởng Giả đồng thanh nhứt tâm bạch rằng : " Bạch Đức Thế Tôn ! Nay chúng tôi muốn được giải thoát mười sự khổ bức bách như là sanh già v. v...nhẫn đến sự bức bách đi quanh trong đồng hoang đói kém chúng tôi đều muốn được giải thoát tất cả".
Đức Phật phán dạy : " Nầy các Trưởng Giả ! Các ông nghe kỹ. Nay ta sẽ nói chánh pháp yếu.
Nầy các Trưởng Giả ! Nhăn chẳng cầu giải thoát, v́ nhăn không tác không dụng, nhăn chẳng suy nghĩ được chẳng hay biết được. V́ thế nên nhăn chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy. Cho đến nhĩ tỷ thiệt thân và ư đều chẳng cầu giải thoát, v́ nhĩ đến ư không tác không dụng, chẳng suy nghĩ được chẳng hay biết được . V́ thế nên nhĩ đến ư cũng chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Sắc chẳng cầu giải thoát, v́ sắc không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được . V́ thế nên sắc chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy. Như sắc, năm trần thanh hương vị xúc và pháp cũng đều chẳng cầu giải thoát v́ đều không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được, đều chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Sắc uẩn chẳng cầu giải thoát, v́ sắc uẩn không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được, chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy. Bốn uẩn thọ tưởng hành và thức cũng đều chẳng cầu giải thoát, v́ không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Địa đại chẳng cầu giải thoát, v́ không tác không dụng không suy nghĩ được không hay biết được không phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy. Thủy đại, hoả đại, phong đại, không đại và thức đại cũng đều chẳng cần giải thoát, v́ đều không tác không dụng, không suy nghĩ được không hay biết được chẳng phải là ta, các ông phải thọ tŕ như vậy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Các pháp đều chẳng thiệt, do phân biệt mà sanh khởi, nó nương theo các duyên, không có năng lực, nó chuyển đổi theo các duyên. Nếu có các duyên th́ giả lập các pháp, nếu không các duyên th́ không các pháp giả.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ là giả đặt để ra. Trong ấy không có ǵ sanh ǵ lăo ǵ tử ǵ tận ǵ khởi cả. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng dùng để quy y. Các ông phải biết như vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp đều chẳng thiệt, do phân biệt mà sanh khởi, y cứ theo các duyên, nó yếu kém không năng lực theo các duyên mà chuyển đổi. Nếu có các duyên th́ giả lập các pháp. Nếu không các duyên th́ không pháp giả.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ là giả lập, trong ấy đều không có ǵ sanh ǵ lăo ǵ tử ǵ tận ǵ khởi. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử, đáng dùng để quy y.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu có phân biệt chẳng thiệt th́ có tác ư giả lập bất chánh. Nếu không phân biệt chẳng thiệt th́ không tác ư giả lập bất chánh. Nếu có tác ư bất chánh th́ có vô minh giả lập. Nếu không tác ư bất chánh th́ không vô minh giả lập. Nếu có vô minh th́ có hành giả lập. Nếu không vô minh th́ không các hành giả lập: Nếu có các hành th́ có thức giả lập. Nếu không các hành th́ không thức giả lập. Nếu có thức giả lập th́ có danh sắc giả lập. Nếu không thức th́ không danh sắc giả lập. Nếu có danh sắc th́ có sáu nhập giả lập. Nếu không danh sắc th́ không sáu nhập giả lập. Nếu có sáu nhập th́ có xúc giả lập. Nếu không sáu nhập th́ không xúc giả lập. Nếu có xúc th́ có thọ giả lập. Nếu không xúc th́ không thọ giả lập. Nếu có thọ th́ có ái giả lập. Nếu không thọ th́ không ái giả lập. Nếu có ái th́ có thủ giả lập. Nếu không ái th́ không thủ giả lập. Nếu có thủ th́ có hữu giả lập. Nếu không thủ th́ không hữu giả lập. Nếu có hữu th́ có sanh giả lập. Nếu không hữu th́ không sanh giả lập. Nếu có sanh th́ có lăo tử giả lập. Nếu không sanh th́ không lăo tử giả lập.
Nầy các Trưởng Giả ! Thế nào là lăo ? Đó là t́nh thức tối suy, đầu bạc tóc rụng, da dùn mặt nhăn, thọ mạng tổn giảm, các căn suy kém, hàng động bất tiện, đó gọi là già.
Thế nào là tử ? Đó là diệt mất đổi dời các uẩn tan ră hư hoại bỏ chúng đồng phận, đó gọi là chết.
Lăo ấy tử ấy hiệp lại gọi là lăo tử .
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu sanh mà có th́ có giả lăo tử . Nếu sanh mà không th́ không giả lăo tử.
Thế nào là sanh ? Đó là sanh ấy đồng sanh khởi các uẩn xuất hiện và có các căn xứ hội hiệp chúng đồng phận, đó gọi là sanh.
Nầy các Trưởng Giả ! nếu hữu mà có th́ có giả sanh. Nếu hữu mà không th́ không giả sanh.
Thế nào là hữu ? Đó là dục hữu sắc hữu và vô sắc hữu, phước nghiệp phi phước nghiệp và bất động nghiệp, đó gọi là hữu.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu thủ mà có th́ có giả hữu. Nếu thủ mà không th́ không giả hữu.
Thế nào là thủ ? Đó là dục thủ kiến thủ giới cấm thủ và ngă thủ, đó gọi là thủ.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu ái mà có th́ có giả thủ . Nếu ái mà không th́ không giả thủ.
Thế nào là ái? Đó là sắc-ái thanh-ái hương-ái vị-ái xúc-ái và pháp-ái, đó gọi là ái.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu thọ mà có th́ có giả ái. Nếu thọ mà không th́ không giả ái.
Thế nào là thọ ? Đó là nhăn xúc sanh ra thọ, nhĩ-xúc tỷ-xúc thiệt-xúc thân-xúc ư-xúc sanh ra thọ, đó gọi là thọ.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu xúc mà có th́ có giả thọ. Nếu xúc mà không th́ không giả thọ.
Thế nào là xúc ? Đó là nhăn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ư xúc, đó gọi là xúc.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu sáu nhập mà có th́ có giả xúc. Nếu sáu nhập mà không th́ không giả xúc.
Thế nào là sáu nhập ? Đó là nhăn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập và ư nhập, đó là sáu nhập, cũng gọi là sáu xứ, là sáu căn.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu danh sắc mà có th́ có giả sáu nhập. Nếu danh sắc mà không th́ không giả sáu nhập.
Thế nào là danh sắc ? Đó là thọ tưởng tư xúc tác ư bốn đại chủng và sắc sở tạo của bốn đại chủng tạo ra, đó là danh sắc.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu thức mà có th́ có giả danh sắc. Nếu thức mà không th́ không giả danh sắc.
Thế nào là thức ? Đó là nhăn-thức nhĩ-thức tỷ-thức thiệt-thức thân-thức và ư-thức, đó gọi là thức.
Nầy các Trường Giả ! Nếu hành mà có th́ có giả thức. Nếu hành mà không th́ không giả thức.
Thế nào là hành ? Đó là sắc-tư thanh-tư hương-tư vị-tư xúc-tư và pháp-tư, đó gọi là hành.
Nầy các trưởng Giả ! Nếu vô minh mà có th́ có giả hành. Nếu vô minh mà không th́ không giả hành.
Thế nào là vô minh? Đó là tiền tế không biết, hậu tế không biết, tiền tế hậu tế không biết, nội không biết, ngoại không biết, nội ngoại không biết, khổ không biết, tập không biết, diệt không biết, đạo không biết, duyên không biết, duyên khởi không biết, với pháp duyên sanh hoặc đen hoặc trắng, có duyên không duyên, có quang ảnh không quang ảnh, có tội không tội, đáng thân cận không đáng thân cận, không biết không thấy không nh́n rơ không thấu hiểu, đó gọi là vô minh.
Nầy các Trưởng Giả ! Tác ư bất chánh nếu mà có th́ có giả lập vô minh. Nếu tác ư bất chánh mà không th́ không giả lập vô minh.
Thế nào là tác ư bất chánh? Đó là quan niệm rằng ở quá khứ, ta ḍng ǵ chỗ nào loài nào? Đến vị lai, ta ḍng ǵ chỗ nào loài nào. Lại đối với nội sanh thân sanh nhiều nghi hoặc : Thế nào gọi là ta, ta là ai, là có hay là không, là hư hay là thiệt, là ḍng ǵ, là chỗ nào, là loài nào, xưa ta chỗ nào đến ở chỗ nọ ? Phát khởi những tác ư bất chánh như vậy.
Từ trong sáu kiến giải tùy sanh ra một kiến giải nào rồi chấp là có ngă, chấp là không ngă, hoặc y nơi ngă mà cho là ngă, hoặc chẳng y nơi ngă mà cho là ngă. Lại hư vọng phát khởi kiến chấp như vầy : ngă tức thế gian hoặc do duyên phát khởi là thường là hằng chẳng chuyển chẳng biến c̣n hoài măi măi. Đó gọi là tác ư bất chánh.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu có phân biệt chẳng thiệt th́ có giả lập tác ư bất chánh. Phân biệt chẳng thiệt nếu không th́ không giả lập tác ư bất chánh.
Thế nào gọi là phân biệt chẳng thiệt ? Đó là ngă, hữu t́nh chúng sanh, thọ mạng giả, trượng phu, sát thủ, sanh giả, ư sanh, nhơn, tác giả, thọ giả, đó gọi là chẳng thiệt . Mà lại có phàm phu không học hiểu hư vọng phát khởi phân biệt là ngă, là nhơn, là hữu t́nh, là mạng giả, phân biệt là trượng phu, là sát thủ, là sanh giả, là ư sanh, là tác giả, là thọ giả, đó là phân biệt chẳng thiệt.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu phân biệt chẳng thiệt ấy mà có th́ có giả lập tác ư bất chánh. Nếu phân biệt chẳng thiệt mà không th́ không giả lập tác ư bất chánh.
Nầy Trưởng Giả ! Nếu tác ư bất chánh mà có th́ có giả lập vô minh . Nếu tác ư bất chánh mà không th́ không giả lập vô minh .
Nếu vô minh mà có th́ có giả lập các hành.
Nếu vô minh mà không th́ không giả lập các hành.
Nếu các hành mà có th́ có giả lập thức. Nếu các hành mà không th́ không giả lập thức.
Như vậy nhẫn đến nếu sanh mà có th́ có giả lập lăo tử. Nếu sanh mà không th́ không giả lập lăo tử".
Đức Phật phán dạy : " Nầy các Trưởng Giả ! Nay các ông phải biết tất cả các pháp đều do phân biệt chẳng thiệt phát khởi, đều y theo các duyên, nó yếu kém vô lực theo các duyên mà chuyển. Nếu có các duyên th́ có giả pháp, nếu không các duyên th́ không giả pháp.
Nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ là giả lập, trong ấy đều không có ǵ sanh ǵ lăo ǵ tử ǵ tận và không có ǵ phát khởi, chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng được quy y.
Nầy các Trưởng Giả ! Ví như ao nước lớn, các loài tôm cá y nơi sức ǵ để ở ?".
Các Trưởng Giả thưa : " Bạch Đức Thế Tôn ! Các tôm cá ấy y nơi sức nước để ở".
Đức Phật phán: "Đúng như vậy . Nầy các Trưởng Giả ! Nước ấy có nghĩ rằng tôi có sức lực chăng ?".
Các Trưởng Giả thưa : " Bạch Đức Thế Tôn ! Nước ấy vô lực vô năng, nào có suy nghĩ ǵ".
Đức Phật phán : "Đúng như vậy. Nầy các Trưởng Giả ! Các pháp do phân biệt chẳng thiệt phát khởi cũng như vậy, chỉ là giả đặt bày, nó không lực không năng theo các duyên mà chuyển. Có các duyên th́ có giả pháp. Không các duyên th́ không giả pháp.
Nầy các Trưởng Giả ! Các pháp chỉ là giả lập. Trong ấy đều không có ǵ sanh ǵ lăo ǵ tử ǵ tận ǵ khởi. Chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sanh tử đáng được quy y. V́ thế nên các ông phải chánh quan sát các duyên như vậy chẳng phải là chỗ an ổ khó bảo tŕ được, rồi rất sợ sệt đào tẩu lánh xa nó.
Các ông lại phải quan sát đó là pháp ǵ, do sợ pháp ǵ mà chạy đến đây? Lúc các ông chánh quán như vậy th́ không pháp để được, không sợ không bỏ. Tại sao? Tất cả các pháp đều là bất khả đắc, v́ tất cả thứ cầu mong đều bất khả đắc; Tất cả pháp không ngă v́ rời ĺa trần cấu; Các pháp không chúng sanh v́ xa rời ngă; Các pháp không thọ mạng v́ ra khỏi sanh già bịnh sầu lo khổ năo bức bách; Các pháp không sát thủ thú v́ ba đời dứt đoạn; Các pháp không danh tự v́ tất cả ngôn âm không thể nói; Các pháp vô trước v́ không sở duyên; Các pháp tịch tịnh v́ là tướng tịch diệt; Các pháp phổ biến v́ là tánh hư không; Các pháp tánh không v́ không định thuộc; Các pháp vô động v́ không sở y; Các pháp y cứ nơi thiệt tế an trụ nơi thiện trụ v́ tương ưng với vô động; Các pháp chẳng thể khai xiển v́ rời ĺa tướng sóng tràn; Các pháp chẳng thể hiển thị v́ không tướng không h́nh không có quang ảnh rời ĺa các hành; Các pháp chẳng phải sở hữu của ngă v́ rời ngă sở; Các pháp chẳng thể phân biệt v́ rời tâm ư thức; Các pháp không ái tàng v́ siêu quá nhăn thức nhẫn đến nhĩ tỷ thiệt thân và ư thức; Các pháp chẳng thể cất dời v́ rời sanh trụ hoại; Các pháp không tác dụng v́ rời tâm ư thức; Các pháp thuộc nơi duyên v́ tánh yếu kém.
Nầy các Trưởng giả ! Ta nói về nhăn ấy, là pháp, do bốn đại chủng tạo ra, nó là pháp vô thường vô trụ vô hằng chẳng bền chắc yếu kém mau hư khó, bảo tín được, là chỗ họp của các sự khổ năo nhiều bịnh nhiều tai hại. Nhăn ấy đă như vậy, các ông chớ nên y chỉ nó . Với nhĩ tỷ thiệt thân và ư cũng như vậy, các ông chớ nên y chỉ nó. Các ông phải quán sát như vậy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Nhăn như đống bọt nước chẳng rờ nắm được; Nhăn như bóng nước nổi chẳng dừng lâu; Nhăn như dương diệm do nghiệp cảm ái sanh; Nhăn như cây chuối tánh chất chẳng bền; Nhăn như ảo thuật từ điên đảo phát khởi; Nhăn như cảnh mộng chỉ hư vọng thấy; Nhăn như vang hệ thuộc các duyên; Nhăn như bóng sáng do ánh sáng nghiệp ảnh hiện; Nhăn như mây nổi tụ họp tán loạn; Nhăn như chớp nháng sát na bèn dứt; Nhăn không có chủ như đất; Nhăn không có ngă như nước; Nhăn chẳng phải hữu t́nh như lửa, nhăn chẳng phải thọ mạng như gió ; Nhăn chẳng phải sát thủ thú như hư không; Nhăn chẳng thiệt y cứ nơi các đại chủng; Nhăn là rỗng không rời ngă và ngă sở; Nhăn là vô tri như cỏ cây đất đá; Nhăn không tác giả do gió cơ quan chuyển vận; Nhăn ấy hư giả là đống mục nhơ; Nhăn ấy dối trá là pháp tan ră bể hư dứt mất; Nhăn như g̣ giếng thường bị sự già suy bức ngặt; Nhăn không ở yên trọn về nơi ṃn dứt.
Nầy các Trưởng Giả ! Nhăn có nhiều lỗi, các ông phải quán sát như vậy, nhẫn đến ư và tất cả các pháp cũng phải quan sát như vậy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Tất cả các pháp chỉ có vọng dục. Kẻ ngu v́ chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là nhăn, lầm gọi là nhĩ, nhẫn đến lầm gọi là ư.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu v́ chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là sắc, là thanh, là hương vị xúc pháp.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu v́ chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là sắc uẩn, là thọ uẩn, là tưởng hành thức uẩn.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu v́ chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là địa đại chủng, là thuỷ hỏa phong không thức đại chủng.
Nầy các Trưởng Giả ! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu v́ chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là hữu vi, là vô vi. Nhẫn đến cả các pháp cũng như vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Nay các ông phải bỏ vọng dục mà hướng đến vô dục. Với vợ con, nhà cửa, của cải, các ông phải biết rơ là hư vọng chẳng nên chấp trước . V́ chẳng chấp trước nên dùng ḷng tịnh tín rời bỏ gia pháp đến nơi phi gia th́ sẽ được vô dục.
Nầy các Trưởng Giả ! Những ǵ gọi là xuất gia vô dục ? Đó là an trụ nơi giới biệt giải thoát nhiếp tŕ đầy đủ oai nghi đi đứng, rất sợ phạm tội nhỏ, thọ học luật nghi thành tựu giới uẩn.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu các ông phụng tŕ giới được rồi th́ đối với sáu căn sáu cảnh năm uẩn và sáu đại chủng biết rơ là hư giả đều chẳng chấp trước. V́ chẳng chấp trước nên gọi là pháp xuất gia vô dục.
Nầy các Trưởng Giả ! Nếu chẳng chấp trước nơi nhăn nhẫn đến thức đại chủng th́ chẳng bảo hộ. Chẳng bảo hộ những ǵ ? Đó là nhăn chẳng bảo hộ nhẫn đến thức đại chủng chẳng bảo hộ. V́ chẳng bảo hộ nên không phiền năo . Nếu không phiền năo th́ gọi là nhẹ nhàng.
Ǵ là nhẹ nhàng ? Đó là không sở kiến. Nếu không sở kiến th́ chẳng y cứ nơi vật mà phát khởi ḷng sân hại. Do không sân hại th́ không tự hại, chẳng nghĩ hại người, chẳng nghĩ hại cả ḿnh và người. V́ không hại nên bèn chứng nhập nơi vô dư đại Niết Bàn.
Nầy các Trưởng Giả ! Các ông phải biết ai chứng nhập nơi Niết Bàn ?
Nầy các Trưởng Giả ! Nhăn chẳng nhập Niết Bàn. Nhĩ tỷ thiệt thân và ư chẳng nhập Niết Bàn. Nhưng nhơn nơi nhăn nhơn nơi nhĩ tỷ thiệt thân và ư phát khởi vọng chấp : hoặc chấp là ngă, hoặc chấp là ngă sở. Nếu xa rời hẳn tức là Niết Bàn.
Xa rời những ǵ mà là Niết Bàn ?
Nếu xa rời tham tức là Niết Bàn. Nếu xa rời sân tức là Niết Bàn. Nếu xa rời si tức là Niết Bàn. Nếu rời xa vô trí tức là Niết Bàn.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Quá khứ vô trí chẳng thể xa rời được, vị lai vô trí chẳng thể xa rời được, hiện tại vô trí chẳng thể xa rời được . Nhưng cần phải nhơn nơi xa rời vô trí mà chánh trí phát khởi.
Nầy các Trưởng Giả ! Những ǵ là trí ? Đó là tận trí. Những ǵ là tận trí ? Quá khứ chẳng phải tận trí, vị lai chẳng phải tận trí, hiện tại chẳng phải tận trí, nhưng nhơn nơi xa rời vô trí mà tận trí ấy pháp sanh. Trí ấy chẳng xa rời trí. Nhơn v́ xa rời nhăn vô trí mà trí ấy phát sanh.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Nhăn chẳng phải là ngă sở. Nếu đă chẳng phải ngă sở, th́ chẳng nắm lấy. Nếu chẳng nắm lấy tức là tối thượng. Nếu là tối thượng tức là giải thoát . Chỗ nào giải thoát ? Ở chỗ ngă chấp mà được giải thoát, ở chỗ chúng sanh chấp, ở chỗ thọ mạng chấp, ở chỗ sát thủ chấp, ở chỗ đoạn thường chấp, ở chỗ tất cả chấp, nhẫn đến ở chỗ phân biệt chấp mà được giải thoát.
Hành giả nếu có thể ở nơi chấp mà được giải thoát th́ chẳng phân biệt. Nếu chẳng phân biệt th́ chẳng phải phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt.
Những ǵ là chẳng phân biệt ?
Đó là chẳng phân biệt ngă và ngă sở.
Lúc bấy giờ hành giả ở nơi tất cả pháp đều ly tán mà chẳng chứa để, bỏ mà chẳng lấy.
V́ xả nên tịch diệt giải thoát trừ khiển tối thắng giải thoát rời các hệ phược.
Ở những chỗ nào gọi là trừ khiển ?
Ở chỗ tất cả khổ mà được trừ khiển .
Các ông nếu cầu xuất ly th́ chớ ở nơi một pháp nào mà sanh ḷng nắm lấy cả. Tại sao? V́ nếu có nắm lấy th́ có bố úy, nếu không nắm lấy th́ không bố úy.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Nhăn chẳng phải tịch diệt, nhĩ tỷ thiệt thân và ư chẳng phải tịch diệt, sắc thanh v. v...chẳng phải tịch diệt, nhẫn đến thức đại chủng chẳng phải tịch diệt. Nhưng nhơn nơi nhăn v. v...phát khởi chấp trước; Hoặc chấp làm ngă, hoặc chấp làm ngă sở. Nếu xa rời chấp ấy tức là tịch diệt.
Xa rời những ǵ mà được tịch diệt ?
Đó là xa rời tham mà được tịch diệt, xa rời sân mà được tịch diệt, xa rời si mà được tịch diệt, xa rời si xa rời vô trí mà được tịch diệt.
Lại nầy các Trưởng Giả ! Quá khứ vô trí chẳng thể xa rời được, vị lai vô trí chẳng thể xa rời được, hiện tại vô trí chẳng thể xa rời được. Nhưng xa rời vô trí mà được trí phát sanh.
Nầy các Trưởng Giả ! Ǵ là trí ? Đó là tận trí. Ǵ là tận trí ? Quá khứ chẳng phải tận trí, vị lai chẳng phải tận trí, hiện tại chẳng phải tận trí. Nhưng, nầy các Trưởng Giả ! Do v́ rời vô trí ấy mà được phát sanh. Trí ấy chẳng rời xa trí . Nhơn v́ xa rời nhăn vô trí nhẫn đến thức đại vô trí mà trí ấy được phát sanh. Nhăn v. v... nhẫn đến thức đại ấy chẳng phải là ngă sở. Nếu chẳng phải ngă sở th́ chẳng phải nắm lấy. Nếu chẳng phải nắm lấy tức là tối thượng. Nếu là tối thượng tức là giải thoát. Chỗ nào giải thoát ? Ở chỗ ngă chấp mà được giải thoát . Ở chỗ hữu t́nh chấp, ở chỗ thọ mạng chấp v. v... nhẫn đến ở chỗ tất cả phân biệt chấp mà được giải thoát.
Hành giả nếu có thể ở nơi chấp được giải thoát th́ chẳng phân biệt . Nếu chẳng phân biệt th́ chẳng phải phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt.
Những ǵ là chẳng phân biệt ? Đó là chẳng phân biệt ngă và ngă sở.
Lúc bấy giờ hành giả ly tán chẳng chứa để bỏ mà chẳng lấy. V́ bỏ nên tịch diệt giải thoát trừ khiển tối thắng giải thoát rời các hệ phược.
Ở chỗ nào trừ khiển ? Ở chỗ tất cả khổ mà được trừ khiển.
Các ông nếu cầu xuất ly chờ ở nơi một pháp nào mà sanh ḷng nắm lấy cả. Tại sao ? V́ nếu có nắm lấy th́ có bố úy, nếu không thủ trước th́ không nắm lấy ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy nên nói kệ rằng :
« Nắm lấy sanh bố úy
Do đây vào ác đạo
Thấy có bố úy nầy
Trí giả chẳng nên lấy
Các ông tu thánh đạo
Cần phải khéo quan sát
Thấy như vậy th́ được
Khác đây th́ chẳng được
Tất cả chỗ đều không
Hư động chẳng chơn thiệt
Tham dối gạt thế gian
Nơi ấy chớ sanh loạn
Ta đă biết pháp không
Rơ các pháp chẳng bền
Lặng yên được an lành
Chứng diệu lạc vô động
Nếu biết rơ các pháp
Đều rỗng không như vậy
Th́ giải thoát các khổ
Và dứt hết tranh luận
Muốn ái thọ tất cả
Th́ sanh các tai hoạnh
V́ ái thọ nên chấp thủ
Chấp thủ sanh các hữu
Do hữu mà có sanh
V́ sanh xa tịch diệt
Có đủ lăo bịnh tử
Các khổ lớn như vậy
Không dục nên không thủ
Không thủ nên không hữu
Không hữu nên không sanh
Lăo bịnh tử cũng không
Tu tập đồ sanh sống
Đều vứt bỏ tất cả
Và bỏ vợ con yêu
Giữ oai nghi Tỳ Kheo
Chớ tham thân và của
Lành thay nhớ tri túc
Chớ như Chiên Đà La
Tham sân tâm hạ tiện
Chớ cậy ḿnh tŕ giới
Khinh hủy người phạm giới
Ỷ giới lấn người khác
Đây là thiệt phá giới
Ví như nai bị bắt
Hoặc trói hoặc bị giết
Người mắc lưới kiêu mạn
Bị trói giết cũng vậy
Mạn làm hư tâm lành
Lại tổn tự tha thiện
Nên chớ khinh phá giới
Huống người ǵn phạm hạnh
Phải học bực đại tiên
Thường ở chỗ không nhàn
Chớ tiếc luyến thân mạng
Hướng tịch tịnh giải thoát
Phải xa rời luận bổn
Của Thuận Thế, Ni Kiền
Nên mến pháp thậm thâm
Tương ưng với chơn không
Mười hai xứ trong ngoài
Tôi nói tâm làm gốc
Kia lại do nghiệp sanh
Nghiệp do tư tưởng có
Nhăn sắc đều làm duyên
Mà sanh khởi nơi thức
Thiếu duyên th́ chẳng sanh
Ví như lửa do củi
Các pháp sanh như vậy
Hoà hiệp sanh lẫn nhau
Không tác giả thọ giả
Hiện tác dụng như huyễn
Tất cả pháp trong ngoài
Ta đă biết là không
Kẻ ngu điên đảo chấp
Cho là ngă ngă sở
Trong nhăn không hữu t́nh
Các xứ ngoài cũng không
Chẳng ngă chẳng thọ mạng
Các pháp đều như vậy
Nhăn chẳng nghĩ giải thoát
Nhĩ tỷ thiệt cũng vậy
Thân ư không tác giả
Quán các pháp cũng vậy
Ví như trong biển lớn
Sóng dậy thành đống bọt
Người sáng suốt thấy rơ
Biết đống bọt chẳng bền
Thể chất của năm uẩn
Người trí biết chẳng bền
Nên giải thoát sanh tử
Sầu ưu tai hoạnh khổ
Xuất gia trong Phật pháp
Biết các pháp như huyễn
Chẳng hư thọ tín thí
Th́ gọi cúng dường Phật".
Năm trăm Trưởng Giả nghe pháp ấy xong, liền xa trần rời cấu, ở trong các pháp được pháp nhăn thanh tịnh ; như y phục sạch sẽ không màu để vào màu nhuộm th́ màu ăn màu, các Trưởng Giả ấy mau được pháp nhăn thanh tịnh cũng vậy.
Đức Thế Tôn lại bảo các Trưởng Giả : " Nầy các Trưởng Giả ! Ta nói nhăn ấy, tánh nó là khổ mà lại cháy phừng. Những ǵ cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng, lửa sanh già bịnh chết sầu lo khổ sở cháy phừng.
Nầy các Trưởng Giả ! Như nhăn, với nhĩ tỷ thiệt thân và ư, ta nói cũng vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Ta nói sắc ấy, tánh nó là khổ mà lại cháy phừng. Những ǵ cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng, lửa sanh già bịnh chết rầu lo khổ sở cháy phừng. Thanh hương vị xúc pháp cũng vậy. Sắc uẩn đến thức uẩn cũng vậy . Địa đại chủng đến thức đại chủng, ta nói tánh nó là khổ mà lại cháy phừng.
Những ǵ cháy phừng ? Đó là lửa tham lửa sân lửa si cháy phừng, lửa sanh già bịnh chết rầu lo khổ sở cháy phừng.
V́ thế nên, nấy các Trưởng Giả ! Nay ta chẳng chấp nhăn nhĩ tỷ thiệt thân ư, các ông cũng phải học theo như vậy. Nay ta chẳng chấp sắc thanh hương vị xúc pháp, các ông cũng phải học theo như vậy. Nay ta chẳng chấp sắc uẩn thọ tưởng hành thức uẩn, các ông cũng phải học theo như vậy. Nay ta chẳng chấp địa đại thủy hoả phong không thức đại, đời nầy đời sau, các ông cũng phải học theo như vậy.
Nầy các Trưởng Giả ! Ở nơi nhăn tỷ thiệt thân ư, nếu các ông chẳng chấp trước th́ chẳng y cứ nhăn mà an trụ, chẳng y cứ nhĩ tỷ thiệt thân ư mà an trụ. Lúc các ông chẳng y cứ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp th́ các ông chẳng y cứ nơi tất cả pháp mà an trụ. Lúc các ông chẳng y cứ nơi sắc uẩn nhẫn đến thức uẩn, th́ các ông chẳng an trụ nơi sắc uẩn nhẫn đến thức uẩn. Lúc các ông chẳng y cứ nơi địa đại chủng nhẫn đến thức đại chủng th́ các ông chẳng an trụ nơi địa đại chủng nhẫn đến thức đại chủng. Các ông chẳng y cứ nơi đời này đời sau và tất cả thế gian để an trụ, lúc các ông chẳng lấy tất cả pháp như vậy th́ các ông chẳng y cứ tất cả pháp để an trụ. Nếu các ông có thể chẳng y cứ tất cả pháp để an trụ, th́ gọi là chẳng phải sẽ có chẳng phải chẳng sẽ có. Các ông nếu rơ biết chẳng phải sẽ có chẳng phải chẳng sẽ có ấy, ta gọi các ông giải thoát những khổ sanh lăo bịnh tử".
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Sanh tử cháy phừng mạnh
Đốt cháy các thế gian
Bị khổ không cứu được
Hư mất nơi thánh đạo
Chư Như Lai chiếu thế
Lâu mới hiện một lần
Không sát na xa rời
Phải khởi tinh tiến chắc
Tu tập các chánh hạnh
Huệ quán phải xét biết
Như huệ quán sẽ được
Khác đây th́ chẳng được
Nếu tu tập nơi đây
Phải biết tất cả không
Thấu rơ pháp không rồi
Tâm không, Bồ đề không
Tham sân cùng với si
Ba thứ lửa độc ấy
Đốt người ngu thế gian
Ngủ măi chẳng hay biết
Sanh lăo bịnh và tử
Sầu ưu các tai khổ
Biết thế gian khổ rồi
Chớ an trụ các pháp".
Năm trăm Trưởng Giả thưa : " Bạch Đức Thế Tôn ! Nay chúng tôi muốn ở chỗ Đức Phật xuất gia thọ giới cụ túc tu hạnh thanh tịnh chẳng biết có được Đức Thế Tôn thương xót hứa cho chăng ?".
Đức Phật phán : " Lành thay ! Tỳ Kheo lại đây".
Liền được gọi là xuất gia đủ các giới rồi thành pháp Tỳ Kheo.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
"Chấp thọ ca sa rồi
Râu tóc tự nhiên rụng
Tất cả đều cầm bát
Liền đó thành La Hán
Biết được La Hán rồi
Ở trước chúng Tỳ Kheo
Và đối hàng chư Thiên
Thế Tôn tự tuyên nói
Thuở xưa giúp ích đời
Rộng làm sự bố thí
Tùy thọ sanh chốn nào
Thường được nhiều an vui
Nay họ được gặp Phật
Lại có ḷng tịnh tín
Do ḷng họ thanh tịnh
Nên Phật nói diệu pháp
Nghe pháp được La Hán
Ĺa hẳn nơi ngă kiến
Chứng pháp không hiện tiền
Giải thoát nơi sanh tử ».
Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Khai Hóa Trưởng Giả
Thứ Nhất
HẾT
Tiếp Tục
1202 Phẩm Kim Tỳ La Thiên Thọ Kư